Bùi Đức Thống, “Những người ngã xuống cuối cùng”




Tầm 17 giờ ngày 29/4/1975, sau khi cùng bộ binh trung đoàn 24 đánh tan các chốt chặn của địch ở Củ Chi, Thành Quan Năm, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, Hóc Môn, hãng dệt Vinatekco, xe 814 của tôi đi đầu đội hình đã tới đầu sân bay Tân Sơn Nhất (…)

Một cơn mưa lớn bất ngờ ập xuống (…) Chừng 30 phút sau, mưa tạnh (…) tôi nhìn thấy rất nhiều máy bay trực thăng của địch đỗ ở phía trong sân bay. Địch ở trong sân bay lúc này cũng phát hiện được xe tăng của ta nên chúng tập trung hỏa lực bắn như vãi đạn về phía tôi làm một chiến sỹ trinh sát bộ binh ngồi trên xe hy sinh tại chỗ. Phát hiện hỏa lực địch từ ba chiếc lô-cốt (…) tôi lệnh cho pháo thủ nã đạn. Chỉ trong ít phút cả ba lô cốt này đã bị tiêu diệt (…) Bỗng tôi nhìn thấy một quả đạn xanh lét của địch đang bay về phía xe tôi, may quá nó trượt phía trên tháp pháo (…) Thì ra có hai chiếc M48 của địch trong sân bay (…) Tôi lệnh cho pháo thủ bắn trả (…) Quả đạn đầu không trúng. Đang định cho bắn tiếp quả thứ hai thì pháo thủ báo không phát hiện được xe tăng địch nữa (…) Chúng đã chuồn mất (…)

19 giờ, chúng tôi được lệnh dừng lại cùng bộ binh ở khu vực ngã ba Bà Quẹo (…) Đêm 29/4 căng thẳng. Địch liên tục dùng hỏa lực các loại bắn về phía chúng tôi (…) Mặc dù đêm đã khá khuya nhưng trong sân bay Tân Sơn Nhất đèn vẫn sáng rực, từng đàn máy bay trực thăng địch vần vũ, bay lên bay xuống liên tục đưa người đi di tản (…)

Tầm hơn 3 giờ sáng (…) tiếng súng ít đi (…) tiểu đoàn trưởng đến giao nhiệm vụ cho chúng tôi: sáng mai, sẽ tấn công vào sân bay theo cổng số 5 (…)

5 giờ sáng ngày 30/4, trời vẫn còn tối (…) Lệnh tấn công được phát ra. Hai khẩu pháo cao xạ 37 ly của của một đơn vị thuộc trung đoàn pháo cao xạ 234 hạ thấp nòng khai hỏa trước. Tiếp đó, ĐKZ, cối 82, cối 60 của bộ binh trung đoàn 24 cũng cấp tập bắn về phía địch (…) Bốn xe tăng thê đội 1 của chúng tôi xuất kích (…)

Địch dùng lựu đạn từ trên các nóc nhà ở hai bên đường ném xuống, rồi dùng M79, đại liên bắn xối xả về phía quân ta (…) Anh em bộ binh phải nhảy hết xuống xe. Qua ống kính, tôi phát hiện một lô-cốt ở đầu đường bên trái đường Hoàng Hoa Thám đang bắn đại liên về phía chúng tôi, lập tức tôi lệnh cho pháo thủ (…) Bằng một quả đạn chính xác, ổ hỏa lực này bị tiêu diệt (…)

Tầm 6 giờ 30, đội hình xe tăng chúng tôi vào tới khu vực ngã tư Bảy Hiền (…) Địch phòng thủ rất mạnh ở cả ba hướng, chúng bố trí hỏa lực chống tăng trên nóc các ngôi nhà nên khi xe của ta vừa vào đến ngã tư đã bị chúng bắn cháy hai chiếc (…) Trung đoàn 24 cho bộ binh luồn qua ngõ ngách đánh vào các ổ hỏa lực địch (…) Đến 8 giờ sáng chúng tôi mới chiếm được ngã tư Bảy Hiền (…) Xe 814 của tôi và xe 981 của anh Thuận tiến theo đường Võ Tánh để đến cổng số 5 (…)

Tầm gần 9 giờ, hai xe tới đầu Lăng Cha Cả. Đây là khu đất rộng, ba mặt đều trống trơn rất thuận lợi cho việc phòng thủ (…) Theo như sơ đồ, đã gần cổng sân bay nên tôi đoán chúng bố trí hỏa lực mạnh (…) Nhìn về phía sau không thấy một xe nào, trên xe lúc này cũng không có trinh sát hay bộ binh (…) nhưng tôi và anh Thuận đều rất quyết tâm. Vừa tiến chúng tôi vừa bắn, địch ở các vị trí xung quanh cũng bắn ra rất dữ dội. Xe 981 của anh Thuận vừa tới đầu phía trên của Lăng Cha Cả thì trúng đạn bốc cháy. Ngọn lửa trùm lên cả xe. Như vậy lúc này đơn độc chỉ có một xe của tôi. Biết phía trước rất nguy hiểm, nhưng tôi vẫn bình tĩnh lệnh cho lái xe lách sang bên phải xe anh Thuận đang cháy, lao lên. Phát hiện một lô-cốt địch ở một cổng nhỏ đang bắn ra, tôi lệnh cho pháo thủ tiêu diệt (…) Tôi đoán cổng to của sân bay chắc ở phía trên nên cho xe tiếp tục tiến (…) Xe tới gần câu lạc bộ sĩ quan không quân ngụy, phía bên phải là tường của khu vực Bộ Tổng tham mưu nguỵ (…) Nơi đây rất rộng, trống trơn (…) tình thế cực kỳ nguy hiểm (…) Một quả hỏa tiễn của địch từ một cái tháp ở phía trước cổng Bộ bắn tới, may nó trượt tháp pháo. Tôi lệnh cho pháo thủ bắn trả. Sau đó không thấy địch ở đấy bắn ra nữa (…) Quan sát qua kính ngắm tôi phát hiện hai xe tăng M48 đang nấp sau hai chiếc GMC chắn ngang đường (…) Chúng nã đạn về phía xe tôi nhưng đều không trúng (…) Xe tôi mấy lần nổ súng cũng không kết quả (…) Hỏa lực địch xung quanh tập trung nhằm xe tôi bắn (…) Những quả đạn xanh lét liên tục bay tới (…) Sau chừng 20 phút chiến đấu, xe của tôi dính tới ba quả (…) Quả thứ nhất chạy dọc nòng pháo, quả thứ hai làm bay mất móc cáp kéo xe. Quả thứ ba trúng thùng dầu làm lửa cháy rất nhanh trong xe. Tôi và hai pháo thủ nhảy ra kịp. Lái xe Nguyễn Xuân Khoát hy sinh (…) Ba chúng tôi nằm rạp xuống rãnh nước ria đường phía sau chiếc xe tăng đang cháy để tránh đạn (…) Bọn địch cách chừng 40 mét hò hét, nhưng không tên nào dám xông tới, chỉ bắn dữ dội (…) Cả ba anh em đều trúng đạn. Tôi bị một mảnh đạn vào gối, pháo thủ Bắc bị thương vào đầu, pháo thủ Cắm bị thương vào người (…) Chúng tôi tự băng bó cho nhau (…)

Tôi vẫn chú ý quan sát về phía sau, thấy xe tăng của ta lên chiếc nào lại dính đạn địch bốc cháy chiếc ấy. Mỗi lần xe của ta cháy tôi nghe rất rõ tiếng hò reo vui mừng của bọn địch. Ta mất thêm ba xe tăng nữa (đây là những xe trong ảnh một nhà báo Pháp chụp) (…)

Tầm gần 10 giờ (…) tiếng súng địch thưa thớt hơn (…) Tôi trao đổi với hai anh em pháo thủ là một trong hai người bò về phía sau bắt liên lạc với đơn vị (…) Chắc do vết thương, không ai nhận đi. Tôi quyết định mình sẽ bò về (…) Tôi ép người xuống đất nhích dần từng tý một (…) được chừng 40 mét, bỗng nghe tiếng hô to: “Hàng thì sống, chống thì chết!”. Tôi giật mình, song nghĩ đây là tiếng bộ đội ta chứ không phải địch vì giọng miền Bắc. Mừng quá. Tôi vội cởi mũ xe tăng ra vẫy vẫy, rồi hô to: “Bộ đội xe tăng đây! Quân mình đây!” (…) Tôi đoán họ là trinh sát của trung đoàn bộ binh 24 (…) Xe tăng, xe thiết giáp rồi bộ binh ta ùn đầy khu vực Lăng Cha Cả (…)

Chiều 30/4, chúng tôi trở lại khu vực những chiếc xe tăng cháy để làm công tác tử sĩ. Do nhiệt độ trong xe vẫn còn rất cao nên mãi ba ngày sau chúng tôi mới thực hiện được. Nhìn thi hài các anh còn lại chẳng là bao đựng trong thùng đại liên, mọi người đều không cầm được nước mắt (…)

Sau này mỗi lần có dịp đến Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đều trở lại Lăng Cha Cả. Mỗi lần trở lại cảm xúc nghẹn ngào lại trào dâng (…) Tôi vẫn như thấy gương mặt của các đồng đội mình (…) Tôi mong ước nơi đây sẽ có một tấm bia (…) ghi nhớ những người lính xe tăng quả cảm, anh hùng đã ngã xuống ngay trước giờ Toàn thắng của dân tộc (…)


(Nguyễn Đình Thi ghi lời kể của Bùi Đức Thống, trưởng xe 814, đại đội 1, lữ đoàn xe tăng 273)