Nguyễn Việt Phát, “Đánh úp Buôn Ma Thuột”




Cuối tháng 11/1974, chúng tôi được lệnh hành quân (…) Mãi mấy ngày sau chúng tôi mới được biết là mình đang đi sâu về phía nam Tây Nguyên (…)

Dọc đường (…) tôi thấy từng đoàn xe tải, xe tăng, xe kéo pháo các loại bám đuôi nhau trên con đường công binh Sư 470 của Binh đoàn Trường Sơn mới mở, một cảnh tượng mà nhiều năm ở chiến trường chưa bao giờ thấy (…) Những đoạn qua nơi trống trải, người ta dựng dàn như dàn mướp ngụy trang mặt đường để che mắt lũ trinh sát OV10, L19 (…) Thi thoảng lại thấy những phuy xăng bằng túi nhựa khổng lồ chôn lộ thiên ven đường dưới tán cây rừng (…)

Vòng sang phía tây dãy Chư Mom Ray, chúng tôi xuyên sang đất bạn, gặp bạt ngàn rừng cây khộp xù xì, mặt đất phủ đầy một loại cỏ mịn vàng và những bụi le cằn cọc (…)

Sau chừng nửa tháng, chúng tôi dừng chân tại khu vực suối Đắk Đam, ranh giới giữa Việt Nam – Căm Pu Chia, và đón tết 1975 ở đó. Với tôi đây là cái tết thứ tư tại chiến trường, đơn giản và chóng vánh. Ăn tết xong, chúng tôi được lệnh đi trinh sát chuẩn bị chiến trường. Trước khi đi, trung đoàn trưởng Trương Tăng Thái trực tiếp gặp chúng tôi giao nhiệm vụ, yêu cầu bí mật tuyệt đối, đặc biệt không được mang theo thư tín, địa chỉ đơn vị, gia đình quê hương. Lúc này chúng tôi mới được biết là ta chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột (…)

Mục tiêu trinh sát đầu tiên là căn cứ Núi Lửa – Đức Lập, sau chuyển sang khu vực sát phía tây thị xã Ban Mê Thuột. Nơi đây rừng khộp bạt ngàn, mặt đất khá bằng phẳng như một bình nguyên. Cả tháng trời chúng tôi lặn lội xuyên rừng, leo trèo, bắc dàn đặt máy phương hướng bàn trên những ngọn cây cao nhất để giao hội vào từng mục tiêu. Thú rừng nhiều lắm, có hôm gặp cả đàn bò tót chạy ầm ầm, cả đôi chim công xòe đuôi múa rất đẹp khiến chúng tôi ngẩn ngơ chiêm ngưỡng (…) Tây Nguyên đang mùa khô nên thật khắc nghiệt, có ngày đi cả buổi mới lấy được bi-đông nước từ vũng nước đục ngàu in đầy dấu chân thú rừng. Nhưng bù lại, ở các khe suối cạn lại có rất nhiều cua đá và rùa vàng, một món ăn bổ dưỡng (…)

Một hôm cả nhóm đang nghỉ trưa bóc lương khô ăn bên một khe cạn thì đột nhiên thấy một đoàn xe “bò vàng” tiến vào. Tất cả lên đạn sẵn sàng chiến đấu, đề phòng địch cải trang dân khai thác gỗ (…) Đợi một lúc không thấy gì khả nghi và hình như họ cũng chưa nhìn thấy ta nên chúng tôi lặng lẽ tránh. Thế nhưng ở mũi trinh sát khác, vì hai bên đã trông thấy nhau nên quân ta buộc phải giữ dân lại để bảo đảm bí mật, sau chiến dịch mởi thả họ về (…)

Trên đường trinh sát, nhiều lần chúng tôi phát hiện dấu hiệu bẻ cây đánh dấu khác thường của thám báo địch. Hễ gặp là chúng tôi nhanh chóng cắt đường để tránh (…) Khó khăn nhất cho tác nghiệp là những hôm nhiều gió, phải ngồi hàng giờ trên ngọn cây, chờ lặng gió mới đo chính xác được vật chuẩn mà đồng đội dựng trên ngọn cây cách xa chừng bốn năm cây số hoặc cột ăng-ten đài phát thanh của Buôn Ma Thuột (…)

Đêm 9 rạng sáng ngày 10/3/1975 ta tiến công Ban Mê Thuột. Vì hành quân đêm, mỗi người được gắn một miếng lân tinh sau ba-lô để người sau nhìn thấy, bám nhau mà đi (…) Khoảng nửa đêm chúng tôi đến gần chân núi Chư Duê, cách tổng kho Mai Hắc Đế non cây số, ém mình vào khe cạn, gốc cây, bụi cỏ chờ giờ G (…)

Đúng 2 giờ sáng, pháo binh ta từ hướng sông Sê Rê Pốc bắn cấp tập, đạn pháo bay qua đầu chúng tôi sáng rực trời. Sau đó xe tăng ta rồ máy, húc đổ những cây rừng mà công binh cưa sẵn một nửa để che mắt địch, đồng loạt xông lên (…)

Gần sáng, tổ đài trính sát chúng tôi theo chân bộ binh sư 316 đang lao lên chiếm đỉnh Chư Duê (…) Chúng tôi nhanh chóng chọn nơi đặt máy quan trắc. Một mỏm đồi nhỏ và trọc lốc, toàn cỏ tranh, chi chit chiến hào (…) Bằng mắt thường, tôi thấy rõ một xe tăng ta đang quay nòng pháo về phía sau, húc đổ cổng kho Mai Hắc Đế, bộ binh theo sau, cảnh tượng giống như một đoạn phim (…)

Đến gần trưa thì quân ta làm chủ khu kho Mai Hắc Đế và vùng xung quanh. Máy bay địch lồng lộn thả bom bừa bãi, khiến bom rơi cả vào sở chỉ huy của địch. Cao xạ 37 ly của ta bắn dữ dội hất chúng ra xa. Ở một số khu vực trong thị xã và tại sân bay Hòa Bình, địch còn chống trả (…)

Sáng 11/3, tiếng súng im dần trong thị xã (…) Đại đội trưởng Lê Hữu Vinh trực tiếp lấy cung một tù binh khai là chuyên chặn bắt sóng vô tuyến điện của ta (…) Tên tù binh cho biết theo những gì chúng đã nghe được thì ta đang chuẩn bị đánh lớn ở Kon Tum và Play Cu (…) Hàng chục ngàn bộ đội với bao nhiêu tăng pháo chuẩn bị cả tháng trời để đánh Ban Mê Thuột mà địch không hề hay biết, việc giữ bí mật và nghi binh của ta quá tuyệt vời! (…)

Chúng tôi lên xe cơ động về Khánh Dương đánh quân Dù (…) Dọc đường gặp từng toán tàn quân ngụy quần áo xộc xệch, đói khát, kéo lê trên đường và xin ăn. Chúng tôi đành bớt khẩu phần lương khô của mình đưa cho họ và dặn họ nên trở về gia đình, ra trình diện chính quyền cách mạng (…)

Đánh địch ở đèo Phượng Hoàng xong, cả trung đoàn tiến xuống Phan Rang (…) Ba ngày sau, trung đoàn nhận lệnh quay trở lại Buôn Ma Thuột để xuôi theo đường 14 tiến về Sài Gòn (…)

Cả trung đoàn hòa vào đội hình của Binh đoàn Tây Nguyên, rùng rùng hành quân trên hàng trăm xe pháo vừa lấy được của địch, nhằm hướng Sài Gòn thẳng tiến giữa ban ngày, khí thế ngút trời (…)


(Nguyễn Việt Phát,
Một thời hoa lửa, nxb. Thanh Niên, 2012)