Nguyễn Nhân Tỏ, “Tháng Tư và Mỹ Hạnh...”




Năm nay, nhân kỷ niệm 46 năm ngày giải phóng Tây nguyên, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, xin ghi lại vài câu chuyện (…)

Sau khi ta giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, địch rút chạy khỏi Tây nguyên. Ta tổ chức truy kích địch trên các ngả đường xuống ven biển miền Trung. Chiến dịch phát triển rất nhanh, Sư đoàn 10 được lệnh đánh cuốn chiếu và đã giải phóng Khánh Dương ngày 22-3. Đến ngày 25-3, cơ bản tỉnh Đắc Lắc được giải phóng. Quân ngụy điều lữ đoàn dù số 3 giữ đèo Phượng Hoàng là ranh giới giữa Đắc Lắc với Khánh Hòa. Quân Giải phóng đánh từ ngày 29-3 đến ngày 2-4, tiêu diệt gọn cả đơn vị thiện chiến này của địch.

Tối 2-4, quân ta đóng quân tại xã Cam Phúc, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là vùng dân Công giáo từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1955, dân chưa hiểu bộ đội giải phóng. Trung đoàn bộ trung đoàn 66 đóng quân trong những vườn xoài, vườn mít của dân. Các nhà dân cửa đóng chặt, không ai ra gặp bộ đội. Sáng hôm sau, có một cụ già ra thăm vườn, lại gần chỗ bộ đội đang nấu cơm ăn sáng. Cụ ngạc nhiên khi thấy bữa ăn của cấp chỉ huy mà chỉ có môn thục phơi khô được ngâm nước rồi cắt khúc nhỏ xào lên ăn với ít mắm kem. Cụ càng ngạc nhiên hơn khi kiểm tra vườn. Cụ đến chỗ bộ đội đang ăn sáng và nói: “Nay tôi mới được biết các ông bộ đội giải phóng. Các ông nghiêm thật, đóng quân cả đêm trong vườn nhà tôi mà mít, xoài còn nguyên. Nếu là lính Sài Gòn thì chắc quả vườn nhà tôi đã bị bẻ hết. Các ông ăn cực quá. Nhà tôi có con heo chừng 70 ký, các ông vào bắt làm thịt mà ăn”. Rồi cụ nói tiếp, vẻ còn lo lắng: “Nhà tôi có hai cháu gái. Mong các ông tha cho hai cháu”. Đến đây thì bộ đội ta cũng ngạc nhiên vì địch đã xuyên tạc làm dân hiểu không đúng về Bộ đội Cụ Hồ.

Anh Tỵ thay mặt anh em cảm ơn cụ và nói: “Quân giải phóng không được phép lấy của dân dù cái kim sợi chỉ, và lại càng không được phép làm hại dân”. Nghe xong cụ đi vào nhà, lúc sau dẫn ra hai cô cháu gái giới thiệu với bộ đội. Cô chị 20 tuổi, cô em mới 16 tuổi. Ngay sau đó hai chị em bẽn lẽn xin được quét dọn trong vườn ngoài ngõ cùng bộ đội. Tiếp theo, hai chị em đi vận động thêm nhiều thanh niên đến cùng tham gia dọn dẹp, giúp bộ đội làm chỗ ở tạm trong mấy ngày. Không khí thôn bỗng vui hẳn lên.

Chỉ có mấy ngày đơn vị đóng quân nhờ trong vườn của dân mà bà con Công giáo di cư đã hiểu và yêu mến bộ đội giải phóng, không sợ “Việt cộng” như đã bị lừa gạt mấy chục năm nay. Ngày chúng tôi rời Cam Phúc để tiếp tục hành quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, dù là khẩn trương và bí mật nhưng một số cụ già, thanh niên và cả các em nhỏ đã bịn rịn tiễn chúng tôi.

Đến cuối tháng 4-1975, đội hình Sư đoàn 320, Quân đoàn 3 đã tới phía bắc Sài Gòn. Gần hai tháng trời với hai chiến dịch lớn, di chuyển qua hơn nghìn ki-lô-mét với bao nhiêu trận đánh, những cuộc hành quân liên tục đói ăn, thiếu ngủ và không ít mất mát, hy sinh, chỉ có niềm tin vào thắng lợi cuối cùng giúp chúng tôi tiếp tục mạnh mẽ, quyết tâm. Chiều ngày 28-4-1975, hướng tây bắc Sài Gòn súng vẫn nổ đinh tai, nhất là phía căn cứ Đồng Dù. Trong lúc chờ lệnh tiến công, chúng tôi ngồi ôm súng dựa ba lô ngủ gà ngủ gật.

Khoảng 4 giờ chiều, có đội nữ biệt động đến phối thuộc dẫn đường cho các đơn vị. Toàn con gái trẻ đẹp, cổ quấn khăn rằn, mặc áo bà ba đen bó chẽn chắc nịch. Người đơn vị dẫn đường cho đơn vị chúng tôi tên là Mỹ Hạnh. Cô còn rất trẻ, cứ bẽn lẽn trước các anh giải phóng quân. Mặt trời khuất hẳn, lệnh hành quân. Cô đi thoăn thoắt, cả đơn vị cố bám theo. Dù mệt và thiếu ngủ nhưng ai cũng cố, chả lẽ thua con gái.

Phía trước là một vùng sáng lớn, chúng tôi đoán là Sài Gòn. Phía tây, cột lửa của kho xăng Đồng Dù bị pháo của ta bắn lúc cuối chiều vẫn cháy ngùn ngụt làm bầu không khí càng ngột ngạt hơn. Lệnh trung đoàn truyền xuống: Hành quân khẩn trương hơn cho kịp đến điểm tập kết theo kế hoạch. Vượt qua đường 8 đoạn Phước Vĩnh An, đồn địch gần đó bắn ra đạn 12 ly 8 đỏ lừ. Mặc, đoàn quân cứ nhắm hướng Cầu Bông thẳng tiến. Bờ ruộng nhỏ trơn trượt, lính hỏa lực mang vác nặng ngã lên ngã xuống, mùi bùn, mùi lúa con gái ngai ngái trong đêm. Mấy trăm người bì bõm dưới ruộng nước, rồi lên ruộng cạn, lại gặp ruộng nước, cứ thế vượt qua cánh đồng rìa làng Tân Thông Hội, xuống Tân Phú Trung. Một giờ sáng cả đội hình đến cánh đồng dưa của dân. Lúc này cái đói cái khát lại hành hạ. Mấy anh trinh sát bàn nhau: “Xin mấy quả đi”... Mỹ Hạnh nghe thấy nói ngay: “Đi làm cách mạng mà lấy của dân à”. Cả đơn vị im lặng, chấp hành, mấy chàng trinh sát hơi ngượng, nhìn trộm cô nữ biệt động trẻ đẹp mà nghiêm khắc quá. Trời gần sáng, trước lệnh tiến công, bộ đội lấy lương khô ra ăn. Tôi đưa mời Mỹ Hạnh một gói, chắc cô cũng đói nên nhận, ăn ngay, vừa ăn vừa khen lương khô chủ lực ngon quá trời. Có anh nào đó bảo: “Mỗi trận đánh, bộ đội chỉ được một gói thôi, Hạnh ăn lương khô rồi thì anh phải ăn dưa thôi”. Cô biệt động hồn nhiên kêu rằng bộ đội lừa em!

Lúc sau, đơn vị được lệnh tiếp tục vận động. Đêm đầu tiên chiếm lĩnh một trận địa ven đô, nhiều cảm giác lạ sau bao năm ở rừng núi. Xa xa là ánh sáng từ Tân Sơn Nhất, nhiều đèn đỏ nhấp nháy di chuyển trên cao, chả hiểu gì. Sau này mới biết là máy bay trực thăng đang di tản người Mỹ và bọn tay sai.

Sáng sớm ngày 29-4, đơn vị phối hợp đánh Cầu Bông, giải phóng Tân Phú Trung và một số địa điểm khác, nửa đêm tạm nghỉ ở Tân Sơn Nhì. Sáng 30-4 tiến đánh tiếp ngã tư Bảy Hiền rồi Lăng Cha Cả, vào Tân Sơn Nhất... Nhân dân mang nhiều hoa quả, bánh kẹo và nước uống tiếp tế cho bộ đội giải phóng. Khi chia tay cô biệt động Mỹ Hạnh, chúng tôi vẫn chưa rõ đấy là tên thật hay biệt danh…


(Nguyễn Nhân Tỏ, “Tháng Tư và Mỹ Hạnh…”, trang
qdnd.vn)