Hồi ký Ngã ba Con Voi (1)




Tôi tham gia chiến trường biên giới Tây Nam được ba mùa khô và bốn mùa mưa, trong đội hình tiểu đoàn 3, trung đoàn 4, sư đoàn 5, quân khu 7 (sau 4/79 trực thuộc mặt trận 479) (…) đã từng trải qua những trận đánh ở Âm Leng tháng 3/79, Công Xi Lốp tháng 6/80 và thường xuyên đi đánh Phnôm Mê Lai trong các năm 80-81-82 (…)

Chúng tôi đến Kompong Thom vào một buổi trưa trung tuần tháng 2/1979 (…) Sáng nay qua biên giới (…) những con đường đất đỏ bụi mù (…) đứng trong thùng xe GMC đón nhận những rừng cánh tay của phụ nữ và trẻ em Campuchia vẫy chào (…)

Thỉnh thoảng ngược chiều (…) một vài chiếc GMC chở xác tử sĩ căng phồng trong những bọc ni-lông, phía trên là những cành lá ngụy trang che nắng (…)

Tôi là một tân binh nghĩa vụ mới bước qua tuổi 19 được hai tháng (…)

Đoàn xe dừng lại trước một dãy nhà sàn (…) Dân Kompong Thom đãi đám tân binh chúng tôi những ống nước thốt nốt ngọt lịm, mát rượi. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được uống (…)

Tôi được bổ sung vào trung đội 7, chỉ huy trung đội là đồng chí Nông Tiến Dũng, dân tộc Tày (…) Với thể trạng cao 1m67, nặng 50 ký, tôi lập tức được phân công vác B-41 với 6 trái đạn. B-41 (…) chống tăng và phá hủy công sự rất hiệu quả (…) nặng khoảng 5,5 kg, mỗi trái đạn nặng khoảng 2,2 kg. Có hai loại đạn, khoan nổ và chạm nổ. Đạn trang bị cho bộ binh vận động tấn công thường là loại chạm nổ, uy lực mãnh liệt, tiếng nổ đanh gọn, đinh tai điếc óc, quầng lửa phản lực màu sáng trắng, hầu như không thấy khói. Đạn tới mục tiêu rất mau, nghe bùng bình một tiếng là đạn nổ văng mảnh rồi. Bùng là tiếng đạn bay ra khỏi nòng, bình là tiếng đạn chạm mục tiêu phát nổ (…)

Không một ngày ngơi nghỉ, chúng tôi hành quân liên tục. Nắng đổ lửa trên đầu, đường đất đỏ xuyên qua những cánh đồng rộng bao la, xa xa là những rặng cây thốt nốt, báo hiệu sắp tới một phum làng. Chúng tôi thận trọng tiến vào phum theo đội hình hàng dọc, cách nhau 10m, đạn AK lên nòng, khóa an toàn bật mở. Tôi được lệnh đẩy đạn B41 vào khấc, tay lăm le cò súng. Phum im phăng phắc. Giếng nước đã bị vứt cây che lấp. Chúng tôi kéo các cành lá lấp giếng ra, nhưng nước trong giếng đen thui, hôi thúi mùi hữu cơ phân rã, không uống được (…)

Hành quân dài ngày khiến khẩu súng B41 ngày mỗi thấy nặng, vai áo ka-ki của tôi đã sờn rách một lớp vì nó. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đi trên một con đường nhựa nóng, trời nắng chang chang, lòng bàn chân phồng lên, mọng nước, rồi cái mọng vỡ ra, nước và huyết tương lẫn với mồ hôi. Vậy mà vẫn cứ đi (…) Khẩu B41 vác trên vai không muốn nổi nửa, tôi quàng dây đeo súng lên cổ, gánh bốn trái đạn trên lưng mà đi lặc lè (viên thứ 6 có người mang giúp). Trung đội trưởng Dũng thấy tôi đi bệ rạc quá, kêu tôi vác súng lên vai đi thẳng dậy, nhưng đại đội trưởng Chính bảo: “Thôi”. Ý anh ấy nói là để tôi đi sao cũng được miễn là tới nơi (…) Sáng nay đã có một đồng đội của tôi, nhập ngũ cùng đợt, nằm bật khóc nức nở giữa đường vì kiệt sức. Anh này là con của “viên tướng Sài Gòn giác ngộ cách mạng Nguyễn Hữu Hạnh” (…)

Chúng tôi đang bước vào một cuộc hành quân lớn. Sư đoàn chúng tôi đang phối thuộc Quân đoàn 4 truy quét tàn quân Pôn Pốt trên một diện rộng từ Takeo đến Kompong Speu, Kompong Chnang. Chúng tôi di chuyển liên tục bằng mọi phương tiện: đi bộ, đi xe GMC, xe tăng T54 (…)

Một buổi sáng, chúng tôi tiến vào một cánh rừng dầu, tiếng súng giao tranh nghe rất gần, một đơn vị nào đó của ta đang đánh địch. Đột nhiên tiếng súng im bặt. Chúng tôi dàn quân đứng nấp sau những gốc cây. Những cây dầu vươn cành lá thẳng lên trời, cao trên 20m, gốc không lớn lắm, đường kính khoảng 30, 40cm thôi. Chợt cái gì đó rơi bộp trên vai, làm tôi hơi giật mình. Thì ra đó là một hoa dầu (…)


(Lấy từ Mạng. Hình như tác giả tên là Hùng.)