|
“Tình quê trong thơ Đường”
Quê, ai xa chẳng nhớ. Nếu đất nước đang thái bình, quê vô sự, thì chỉ có nhớ thôi. Còn nếu đất nước đang cơn binh lửa, quê có thể gặp chuyện chẳng lành, thì chồng lên nhớ là lo. Trong trường hợp chuyện chẳng lành đã thực sự xảy ra thì tất nhiên quyện vào nhớ sẽ là buồn, thương…
Ở bên Tàu đời Đường, nhớ quê rất nhiều lần “nên thơ”. Sau đây là bốn bài của Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, và Liễu Tông Nguyên.
Hạ Tri Chương (659-744) mất trước loạn An Sử (755-763) nên thơ không chứa lo lắng buồn thương chi cả. Nhớ theo nghĩa thường thì cũng không, vì thơ làm khi đã về quê. Nhưng hiểu rộng hơn thì đây cũng có một nỗi niềm, bởi thi sĩ đi xa lâu quá, cái quê xưa với bao nhiêu người quen kẻ biết đã mất rồi, nhớ nó quá đi thôi…
Lý Bạch (701-762) thời trẻ đi chơi khắp nơi, hơn bốn mươi tuổi mới bắt đầu vào kinh làm quan, làm chưa đầy ba năm đã thôi làm, trở lại ngao du sơn thủy… Tính đến cái đêm thanh vắng có trăng rọi sát bên giường, người du tử chuyên nghiệp xa nhà đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? Đâu đó trong tỉnh Tứ Xuyên, không biết có còn ai trông trăng mà nhớ vắng ai?...
Đỗ Phủ (712-770) là một nạn nhân trực tiếp của Loạn, dĩ nhiên đã sáng tác nhiều thơ với nội dung là tình cảm hết sức tha thiết hướng về chân trời cũ. Quê lần trước về đã buồn lắm, mà từ bấy binh lửa vẫn ngút trời, có được về nữa thì buồn chịu làm sao nổi...
Bạch Cư Dị (772-846) sinh sau biến động lịch sử, nhưng cũng được nếm mùi loạn lạc, thêm mùi nạn đói. Một gia đình tan thành năm mảnh, ở năm nơi. Đêm trăng, một người nhớ thương quê, biết anh em mình cũng đang, bèn thơ lên thay cho tất cả…
Liễu Tông Nguyên (773-819) không cho biết quê mình có làm sao không. Nhưng cái nỗi đau đáu đây thật là ác. Giá nó không chỉ cắt ruột mà cắt luôn thân ra thành vô số mình để mỗi mình đứng trên một đầu núi mà cùng trông về…, mới may ra đỡ nhớ!
“Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương
Hình dung một cụ lạ hoắc bỗng nhiên xuất hiện ở đầu làng. Trẻ làng lạ cụ, mà có lẽ chính cụ thì đang bỡ ngỡ trước cái chỗ vốn thật quen. “Ngước mắt trông lên trời cũng lạ, làng ai đây chứ phải làng tôi”!(1) Chính nó đấy cụ ơi, sau bao nhiêu nước chảy qua cầu. Thôi, “giọng quê” đã về thì cứ chống gậy đi tìm khắp nơi đi, rồi sẽ gặp lại nhiều ít quê mà...
Nguyên văn
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi Hương âm vô cải mấn mao tồi Nhi đồng tương kiến bất tương thức Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai.
Dịch nghĩa
Xa quê từ bé, già mới trở về / Giọng quê không đổi, chỉ tóc tai xơ xác / Trẻ con thấy không biết là người làng / Cười hỏi khách từ đâu đến.
Dịch thơ
Bản 1:
Bé đi, lụ khụ mới về Người còn, tóc mất, giọng quê đậm đà Trẻ làng trông ngỡ khách xa Vỗ tay xúm hỏi ông nhà mãi đâu?
Bản 2:
Tóc râu còn chỉ lơ thơ Giọng quê vẫn đậm, tôi xưa đây mà! Trẻ làng lạ mặt cụ già Ông ơi, cho cháu hỏi nhà ông đâu?
Bản dịch thơ khác
Bé đi, già mới về nhà Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng thưa Trẻ con trông thấy hững hờ Cười ồ, hỏi khách lại từ phương nao? (Trần Trọng Kim)
Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao Trẻ con nhìn lạ không chào Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi? (Phạm Sĩ Vĩ)
Trẻ đi già trở lại nhà Giọng quê không đổi sương pha mái đầu Gặp nhau mà chẳng biết nhau Trẻ cười hỏi: Khách từ đâu đến làng? (Trần Trọng San)
“Tĩnh dạ tư” của Lý Bạch
Ánh trăng rọi qua cửa thành một vùng trăng trắng trước giường, nhà thơ có lẽ vừa tỉnh dậy, còn mơ màng, nên ngỡ là sương. Ngỡ thoáng thôi, rồi biết là ánh trăng, rồi ngồi dậy ngẩng đầu nhìn trăng, rồi cúi đầu nhìn vào... lòng mình!
Nguyên văn
Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Ðê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Trước giường trăng sáng soi / Ngỡ sương phủ mặt đất / Ngẩng đầu nhìn trăng sáng / Cúi đầu nhớ quê xưa.
Dịch thơ
Bản 1:
Trước giường bàng bạc màu trăng Mơ màng lại ngỡ sương giăng la đà Ngửng đầu: trăng sáng trời xa Cúi đầu, chạnh nhớ cảnh nhà, quê xưa.
Bản 2:
Trước giường bay một vùng trăng Dở mê những tưởng sương giăng giữa nhà! Ngửng trông vằng vặc trời xa Cúi nghe niềm nhớ chực òa trong tim...
Bản 3:
Sáng trăng soi tận bên giường Nửa mê nửa tỉnh ngỡ sương vào nhà Ngửng đầu: trăng sáng đây mà Cúi đầu, tê tái, quê nhà, bao năm…
Bản 4:
Đầu giường trăng sáng soi Cứ ngỡ chỉ sương thôi Ngửng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu, nhớ quê ơi.
Bản 5:
Đầu giường sáng mờ mờ Chắc là sương đây mà Ngửng đầu nhìn trăng mới Cúi đầu nhớ trăng xưa.
Bản 6:
Đầu giường soi ánh trăng tà Mắt chưa kịp giụi, ngỡ là sương thôi Ngửng trông vằng vặc trăng trời Cúi trông tận đáy lòng người xa quê!
Bản dịch thơ khác
Ðầu giường chợt thấy bóng trăng Mập mờ trên đất, ngỡ rằng sương sa Ngửng đầu trông vẻ gương nga Cúi đầu luống những nhớ nhà băn khoăn. (Trần Trọng Kim)
“Phục sầu” của Đỗ Phủ
Chiến tranh chưa dứt, buồn dài dài... Lần trước về còn gặp người quen, chứ lần này nếu lại được thăm vườn cũ, e chỉ gặp toàn bỡ ngỡ!
Nguyên văn
Vạn quốc thượng nhung mã Cố viên kim nhược hà Tích qui tương thức thiểu Tảo dĩ chiến trường đa.
Dịch nghĩa
Các nước vẫn còn đánh nhau / Vườn cũ không biết nay ra sao / Lần trước về đã thấy thưa người quen / Vì đa số phải tòng quân lâu rồi.(2)
Dịch thơ
Bản 1:
Bốn phương khói lửa mịt mờ Quê nhà chẳng biết bây giờ ra sao Xưa về đã chẳng còn bao Người quen, chinh chiến hớt hao lâu rồi…
Bản 2:
Bốn phương khói ngất lửa bùng Tin quê chẳng có phập phồng nôn nao Xưa về, gọi có quen nhau Mười người chín đã ra lâu chiến trường…
Bản 3:
Binh đao mãi vẫn chưa qua Ngày trông đêm ngóng vào ra thẫn thờ Quê tôi rỗng tự bao giờ! Xưa về, cố cựu đã thưa lắm rồi…
Bản dịch thơ khác
Binh nhung muôn nước nôn nao Quê hương biết đã ra sao đó rồi Xưa về quen biết mấy ai Hay đâu sớm đã hóa nơi chiến trường. (Trần Trọng Kim)
Khắp nước còn binh lửa Ra sao giờ cố hương? Xưa về bè bạn vắng Đây sớm thành chiến trường. (Tế Hanh)
Vạn nước lo phòng giặc Vườn xưa giờ ra sao? Xưa về quen biết ít Nhiều kẻ bận binh đao. (Phan Ngọc)
Nơi nơi lo phòng giặc Quê cũ nay ra sao? Trước về, người quen vắng Chiến trường đi từ lâu. (Phạm Doanh)
“Tự Hà Nam kinh loạn…” của Bạch Cư Dị
Cỏ bồng hình như ở Việt Nam không có. Ở vùng tây nam nước Mỹ, có thứ “cỏ ngã nhào” (tumbleweed) mọc thành từng bụi tròn tròn, to cỡ chiếc lồng gà, đến mùa thu thì khô đi rồi chết, hễ có gió mạnh thổi là gãy gốc, lăn lông lốc, hay là “bồng” đó chăng? Dù sao, hơn mười hai thế kỷ trước bên Tàu từng có một đêm sáng trăng không biết mấy đôi mắt ở năm nơi khác nhau cùng trông trăng mà cùng ướt vì cùng như đang thấy một vùng quê rất đỗi tiêu điều…
Nguyên văn
Thời loạn niên hoang thế nghiệp không Ðệ huynh cơ lữ các tây đông Ðiền viên liêu lạc can qua hậu Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung Ðiếu ảnh phân vi thiên lý nhạn Từ căn tán tác cửu thu bồng Cộng khan minh nguyệt ưng thùy lệ Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng.
Dịch nghĩa
Thời loạn, lại mất mùa, cơ nghiệp không còn gì / Anh em đói cả, bỏ đi khắp đông tây / Vườn ruộng xác xơ sau cơn binh lửa / Ruột thịt trôi nổi trên các nẻo đường / Đáng thương như bóng nhạn nghìn dặm tan tác / Như cỏ bồng tháng chín mùa thu lìa gốc chạy tứ tung / Cùng ngắm trăng sáng mà cùng rơi nước mắt / Một đêm, lòng quê ở năm nơi y như nhau.
Dịch thơ
Loạn to, mùa mất, tan hoang! Sau cơn binh lửa, đói vàng mắt ra Còn chi để nối nghiệp nhà Tha phương cầu thực, cam là phận thôi Dặm nghìn cái nhạn, thương ơi Cỏ thu gió bẻ cội rời lốc lông Trông trăng, lệ ứa đôi dòng Ðêm này năm chốn một lòng thương quê…
Bản dịch thơ khác
Giặc, đói tràn lan, sản nghiệp không Anh em trôi giạt nẻo tây đông Ruộng vườn xơ xác sau cơn loạn Ruột thịt lìa tan giữa chặng đường Nghìn dặm lạc đàn thương bóng nhạn Chín thu lìa gốc thảm thân bồng Nằm nơi lặng ngẩng nhìn trăng sáng Một khối tình quê, lệ mấy dòng. (Phương Đình) (3)
Mùa mất, nhà tan, cảnh chiến trường Anh em tản mác ở mười phương Ruộng vườn hoang phế sau thời loạn Cốt nhục phân ly khắp nẻo đường Bóng nhạn dặm nghìn chi lối thẳm Cỏ bồng tháng chín dứt tơ vương Cùng trông trăng sáng, đều sa lệ Chốn chốn canh dài nhớ cố hương. (Bùi Khánh Đản)
“Khán sơn ký thân cố” của Liễu Tông Nguyên
Trông đỉnh núi nhọn, tưởng mũi gươm đang chực “cắt” cho tan nát cái dạ “thu sầu cố hương” cùa mình. Đa cảm dữ. Chưa hết. Còn muốn có phép thần thông như Tôn Hành Giả, nhân ra um sùm mình, mỗi mình bay đậu lên mỗi đỉnh núi mà ngóng quê! Có “thượng nhân” cùng đứng đó, sao không can, lại để kẻ “đồng khán sơn” bi lụy thê thảm vậy? Dù sao, xưa thảm đã nên thơ, ai giờ đang nhớ “hương” muốn chết, có đem ngâm cho đỡ nhớ thì ngâm.
Nguyên văn
Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang Thu lai xứ xứ cát sầu trường Nhược vi hóa đắc thân thiên ức Tán tác phong đầu vọng cố hương.
Dịch nghĩa
Ở bờ biển núi nhọn như những mũi gươm / Thu đến cắt vào lòng buồn của mọi người / Nếu thân này biến được thành nghìn ức / Mỗi thân sẽ đứng mỗi đầu núi ngóng về quê cũ.
Dịch thơ
Bể xanh núi mọc rừng gươm Như chờ thu tới sầu thương cắt lòng Thân đơn hóa được trăm nghìn Mỗi đầu non mỗi đắm nhìn trời xa...
Bản dịch thơ khác
Núi dàn ven biển tựa gươm giương Khắp chốn thu sang luống đoạn trường Ví phỏng thân này thành vạn ức Rải đều muôn núi ngóng quê hương. (Lê Nguyễn Lưu)
Thu Tứ
___________ “Hồi hương ngẫu thư” nghĩa là “Về quê tình cờ ngồi viết”. “Tĩnh dạ tư” nghĩa là “Nhớ trong đêm vắng”. “Phục sầu” nghĩa là “Lại buồn”. “Tự Hà Nam kinh loạn…” đầy đủ là “Tự Hà Nam kinh loạn, quan nội trở cơ, huynh đệ ly tán, các tại nhất xứ, nhân vọng nguyệt hữu cảm, liêu thư sở hoài, ký thượng Phù Lương đại huynh, Ư Tiềm thất huynh, Ô Giang thập ngũ huynh kiêm thị Phù Ly cập Hạ Khuê đệ muội”, nghĩa là “Sau cơn loạn lạc ở Hà Nam, miền quan nội tắc đường bị đói, anh em tan tác mỗi người một nơi, nhân trông trăng chạnh lòng, tạm viết ra nỗi nhớ của mình, gửi lên anh cả ở Phù Lương, anh bảy ở Ư Tiềm, anh mười lăm ở Ô Giang cùng các em trai em gái ở Phù Ly và Hạ Khuê”. “Khán sơn ký thân cố” đầy đủ là “Dữ Hạo Sơ thượng nhân đồng khán sơn ký Kinh Hoa thân cố”, nghĩa là “Cùng đại sư Hạo Sơ ngắm núi, viết gửi về bà con họ hàng và bạn bè cũ ở Kinh Hoa”.
|
|