Bùi H. Phồn, “Văn tế sống hoàng thượng đi Tây”




Hỡi ôi!
Thánh dạng muôn trùng;
Vân xa khuất vết.

Trên Nam Phương mẹ đỏ nên lòng;
Dưới Cồ Việt dân đen lộn tiết.

Ngựa Đà Lạt rầy buông cương thả cỏ, vắng chủ lên yên;
Chim Ngự Bình nay tải cánh phơi lông, không ai bắn thịt.

Điện Cần Chánh thương lão thần một lũ, mặt thảm như tang;
Thành Ba-lê chúc thiếu đế rảnh mình, lòng vui tựa Tết!

Nhớ vương xưa:
Vóc đẫy ba ôm;
Mình cao bảy mét.

Trí dũng lắm trò;
Võ văn ra phết!

Văn: Lang-sa nửa khoé tú tài;
Võ: Quốc hội trưởng ban tơ-nít.

Ăn uống “cẩm” đế vương Âu Mỹ: trưa bơ, sáng sữa, tối súp la-ghim;
Áo quần “mốt” hoàng tử Ga-lơ: hạ soóc, đông gôn, xuân ca-sịt-két.

Lên chín tuổi đã xuất dương du học, bỏ mẹ, lìa cha;
Hai mươi xuân mới về nước lên ngai, phò Tây, trị Việt.

Tài kinh quốc nổi danh ba cõi: nay đụng xe, mai sa hố, trải mấy gian lao;
Đức an dân lưu tiếng ngàn thu: khi tiễu cọp, lúc trừ hươu, dựng bao công nghiệp!

Nền kinh tế cũng khổ công kiến thiết: đúc tiền trinh bằng vẩy ốc cho nước thêm giàu;
Nếp công thương hằng nhọc trí chấn hưng: đội mũ kiểu mu rùa cho dân bắt chước.

Ân đức vãi vung núi Ngự, có Thổ công soi;
Tài ba tung tẩy sông Hương, có Hà bá xét.

Nào ngờ:
Thế sự xoay chiều;
Thời cơ đổi nếp.

Việc hoàn cầu rối tít bòng bong;
Bom (?) lục địa nổ ran pháo xiết.

Xa thì đấy Âu châu nhiễu loạn, bọn Quốc xã vốn nghề lật lọng, gây hoạ xâm lăng;
Gần thì kia Trung Quốc điêu linh, quân Nhật Hoàng quen thói tham lam, gieo tai phát-xít.

Cảnh ba đào nhường doạ cửa Ngọ môn;
Nạn binh lửa muốn nhòm cổng Khánh tiết.

Sĩ phu nghiêng ngả: đổ nghiệp nguy tai;
Quần chúng dấy lên: cơ đồ hỏng bét.

Bụng mẫu quốc kể ra đã gớm, để đối phó lại tình thế ấy, quyền bung sung hứa giăng tán cuội, miếng đỉnh chung vương tưởng bở đã mừng;

Miệng nhân gian nghĩ lại càng ghê, quyết lộ tẩy ra âm mưu này, gây dư luận vạch mặt chỉ tên, câu lăng nhục họ cho ra chẳng tiếc.

Lúc phẫn chí những ức trào chi nước mắt, ruộng dưa toan giả chủ, sức trâu bò thây kệ chúng húc nhau;

Khi hồi tâm đành cố đấm chi ăn xôi, mũ phớt mượn bưng tai, thân ruồi muỗi lại lo mình chết chẹt!

Ôi thôi thì:
Ở chỉ thêm rầy;
Đi cho đỡ mệt.

Đất An Nam cảnh cỗi người cằn;
Nơi hải ngoại rượu nồng gái đẹp.

Cuộc thương thuyết Ba-lê mà ngã giá, dựa nương sẵn bóng, cũng ổn một đời;
Mộng hoa đăng Mông-mác miễn thâu đêm, sống thác vì tình, cho cam một kiếp.

Nên đây:
Này bốt, này hia;
Này can này píp.

Này may-ô, xi-líp mùa hè;
Này sịt-mốc, măng-tô vụ rét.

Vàng cốm trăm lô;
Xe mây một chiếc.

Đứng tiễn Vương có những tên Bình, tên Bổng, tám tháng cách bỗng xa người nấp gối, lũ chó cụp đuôi;

Trông theo Vương có các bô Phạm, bô Hoàng, bảy năm ròng nay vắng chúa ôm chân, đàn gà bới bếp.


(Bài này Bùi Huy Phồn sáng tác năm 1939 vào dịp Bảo Đại sang Pháp. Tất nhiên đã không thể công khai phổ biến.)



















___________
Lang-sa: francais: tiếng Pháp; cẩm: comme: như; la-ghim: légume: rau, khoai; Ga-lơ: ?: tên hoàng tử Anh; ca-sịt-két: casquette: mũ lưỡi trai; Mông-mác: Monmartre: xóm nhà thổ ở Ba-lê; sịt-mốc: smoking jacket: một kiểu áo khoác lịch sự; Bình: Trần Tán Bình; Bổng: Phạm Lê Bổng; Phạm: Phạm Văn Thụ; Hoàng Trọng Phu.