|
“Dữ Chu sơn nhân”
của Đỗ Phủ
Tưởng tượng chủ nhà nói: “Em cũng chẳng no, mà chẳng đói”(1), rồi người khách đáp, rất thật tình: Bác ơi, thế là quý lắm rồi, tôi thường chẳng được như bác. Dù sao, hai tiên sinh đã được cùng nhau trò chuyện trong một buổi chiều thôn dã thật êm đềm…
Nguyên văn
Cẩm lý tiên sinh ô giác cân Viên thu vu lật vị tuyền bần Quán khan tân khách nhi đồng hỷ Ðắc thực giai trừ điểu tước tuần Thu thủy tài thâm tứ ngũ xích Dã hàng cáp thụ lưỡng tam nhân Bạch sa thúy trúc giang thôn mộ Tương tống sài môn nguyệt sắc tân.
Dịch nghĩa
Tiên sinh làng Cẩm quấn khăn đầu rìu đen Vườn có khoai lang, hạt dẻ, chưa hẳn nghèo Quen thấy khách khứa, trẻ em mừng rỡ Quen được ăn, chim chóc lẩn quẩn ở bực thềm Nước thu mới sâu khoảng bốn, năm thước (2) Ðò đồng chở vừa hai, ba người Cát trắng, tre xanh, cảnh chiều nơi xóm sông Chia tay ở cửa gỗ tạp, dưới ánh trăng mới lên.
Dịch thơ
Khăn thâm buộc vểnh ngang đầu Giàu tuy bác chẳng, hoa mầu đủ ăn Trẻ quen khách khứa, băng xăng Chim vòi hạt thóc quẩn quanh bên hè Còn chưa sâu mấy nước về Chở vừa dăm khách con bè đồng thu Tre xanh cát trắng, chiều mơ Tiễn nhau ra cổng, trăng lơ lửng trời...
Bản dịch thơ khác
Cẩm Lý tiên sinh khăn mỏ diều Có vườn hạt dẻ kể chưa nghèo Thềm quen ăn sẵn, đàn ri dạn Khách đến chơi thường lũ trẻ reo Đò nhỏ: vài ba người trở lại Nước sâu năm, bảy thước là nhiều Tre xanh, cát trắng, chiều sông muộn Ngõ trúc nhìn nhau nguyệt mới treo. (Nhượng Tống)
Thu Tứ
_________ Tên bài nghĩa là “Tặng ẩn sĩ họ Chu”. (1) Trong bài “Lụt hỏi thăm bạn” của Nguyễn Khuyến. (2) Một thước Tàu xưa khoảng 0,33 mét.
|
|