Còn hình ảnh nào hào hùng hơn:

“Anh em say sưa hồ hởi kể với mình những tin vui. Mình mở tung gói thuốc, khói bay tản, quền quện. Mưa rơi mãi. Quanh quanh, những loạt “tọa độ” vẫn vút xuống, nổ rầm rầm. Không khí vui vẻ, sôi nổi làm mình cảm động quá. Dáng dấp mọi người đàng hoàng vô cùng: ba-lô ướt đen nặng trĩu trên vai, áo quần bệt những nước là nước, khẩu tiểu liên đeo xẹo một bên hông và những điếu thuốc lá ngậm trễ môi…”.

Dĩ nhiên không phải chỉ có tin vui. “Chi bị xe tăng đè nát trong hầm cùng hai đồng chí khác”. Đau thương khiến rạng ngời hơn nữa những gương anh dũng.

“Còn gì vui bằng, rạo rực bằng, tự hào bằng khi nghe đài phát thanh trịnh trọng đọc tin chiến thắng: “… Ngày 23 tháng 10, quân Giải phóng bắc Quảng Trị…” (…) Chính chúng tôi đã đánh đấy! (…) Một mẩu tin chỉ phát trong một phút, nhưng để có mẩu tin đó, chúng tôi đã phải ăn cơm vắt, muối trắng, nằm hàng ngày chờ địch. Phải “tắm” B-52, “tắm” bom (của bọn bổ nhào), “tắm” pháo suốt và trần mình chiến đấu chỉ với những khẩu súng có trong tay. Chúng tôi đã phải đổi mẩu tin đó bằng lòng dũng cảm và bằng mồ hôi, bằng máu!”

Mưa ở Quảng Trị một thời, có những thứ hễ dính phải một “giọt” là xa lìa anh em. Nhưng “chúng tôi” vẫn đi “tắm”. Ai dính thì dính, ai chưa dính cứ tiếp tục hết mình làm nhiệm vụ, cho mau đến cái ngày sau đó từ trên xanh cao sẽ chỉ còn rơi xuống những giọt làm bệt áo quần…

Đọc những dòng ký này, thấy vô cùng tự hào. Rồi thấy vô cùng may mắn, vì được tự hào mà không phải đổi bằng cái gì hết! Tri ân làm sao cho gần đủ đây, “chúng tôi” ơi!
(Thu Tứ)



Nhật ký Hoàng Thượng Lân (13)




27-10-1968

(…) Trời nắng ráo sáng sủa thì máy bay trinh sát đến, dò la rồi gọi bọn bổ nhào đến cắt bom, bắn rốc-két, chỉnh cho pháo biển, pháo Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn vào, bắn ra. Trời mây mù u ám, thì từng đoàn, từng đoàn một, bay tít trên cao thả bom xuống. Còn B-52 thì lúc nào cũng bay cao, sáng đánh, chiều đánh, nửa đêm đánh (…)

Hôm kia, dọc đường đi Vĩnh Tú, khi qua chỗ ngã ba, mình tình cờ trông thấy một cánh tay đã khô teo nằm trong một khóm cỏ chổi (…)

O Cường quê ở Vĩnh Tú, trắng trẻo, đẹp mặt đẹp người. Vui tính và có học thức, tế nhị trong khi nói năng cười cợt. Có lúc mình nghĩ thầm, giá đừng có chiến tranh, mình sẽ “xách” o ta ra ngoài đó, chắc “ông bô bà bô” mình chẳng thể chê lấy được một câu nào! Cường cứ đòi nhận làm “chị”, và đòi “Út” Lân làm em để: “Ả có trách nhiệm lo lắng cho tương lai của Út. Út có thiếu thốn gì, cứ bảo với ả sắm sửa cho!”. Và Cường căn dặn mình: “Út đừng đi “cưa” (tức là tán tỉnh) kẻo khổ chị. Cưa lắm hàng xóm họ chê bai là chị không biết dạy dỗ em!”.

Mình giả bộ thật thà, như một đứa em ngoan, nói: “Vâng ạ, chị dạy đúng. Út sẽ nghe lời chị. Út chẳng đi cưa ai đâu. Khi nào buồn, Út chỉ tìm đến chị chơi cho đỡ buồn thôi!”. Mình nhấn rõ mấy chữ “chỉ tìm đến chị” một cách thích thú.

Cường bụm môi lại, lườm mình, rồi bất ngờ cười phá lên, trong trẻo…

28-10-1968

Đơn vị đã rút trọn ra Bắc và về tới hậu cứ chiều nay. Mưa cả ngày, anh em ai nấy đều ướt cả. Mình ra đón họ, cảm động, vui mừng hết chỗ nói. Đây: cậu Tư với khẩu trung liên, cậu Sơn với khẩu súng bắn tỉa, cậu Yên, cậu Tạo với khẩu B40, B41, A10 với những khẩu cối nặng nề… Khuôn mặt họ rạng rỡ vì gặp lại nhau, nhưng xanh tái vì mưa rét và mệt nhọc…

Long nhào đến, ôm choàng lấy mình, hôn chùn chụt: “Đéo mẹ, mày khỏe, mày khỏe quá! Hôm mày trở ra, qua Xuân Mỹ, nghe pháo nó nện dữ quá, chúng tao cứ đoán non đoán già, không biết ba đứa mày có thoát chết không?”.

Thìn hỏi:

- Lân à, hôm 23 mày có nghe chúng bắn dữ không?

- Biết chứ - mình sôi nổi trả lời – Ngoài này, bọn tớ nghe cứ “pằm pằm, pằm pằm” suốt, loại 37 trên tăng bắn. Biết là chúng càn ở mạn C mình đóng. Bọn tớ cứ phấp phỏng, không biết C mình đánh chác ra sao?

- Khá lắm! – Chiều vui vẻ nói, lắc lắc cái mũ tai bèo cho xuống nước – Bọn 12 ly 7 mình bắn tốt vô cùng, tụi lính trên xe tăng rớt như những cái bao tải. Cháy hai tăng nhé! Bảo xơi một chiếc. Tăng vào xáp quá, nó bắn xong, chưa kịp lắp quả khác tăng đã vào, chẹn sát miệng hầm, nó chui ra được, vác khẩu B40 không có đạn chạy tuốt. Nó bị thương đi viện rồi!

- Ông Hòa chỉ huy, tao phục lăn. Ông ấy rất tỉnh táo, điều chỗ này, điều chỗ kia, làm bọn tao chạy cứ muốn đứt hơi!

- Lân à, thằng Lư với thằng Cộng chết rồi!

Anh em say sưa hồ hởi kể với mình những tin vui. Mình mở tung gói thuốc, khói bay tản, quền quện. Mưa rơi mãi. Quanh quanh, những loạt “tọa độ” vẫn vút xuống, nổ rầm rầm. Không khí vui vẻ, sôi nổi làm mình cảm động quá. Dáng dấp mọi người đàng hoàng vô cùng: ba-lô ướt đen nặng trĩu trên vai, áo quần bệt những nước là nước, khẩu tiểu liên đeo xẹo một bên hông và những điếu thuốc lá ngậm trễ môi…

Hồng, với giọng the thé mới vỡ tiếng, đi chệnh choạng, lắc la lắc lư, nghêu ngao: “… A! Hay quá, chị em chúng mình giỏi, bắn gục chiến xa!...” (…)

Trung đội 3 đứng dàn đều trước chiến hào, chờ liên lạc phân phối hầm hố. Lý – cán bộ trung đội – phổ biến cho anh em để “quán triệt tốt” bằng một giọng nói chắc, gọn:

- Tôi nhắc lại, khi về hầm ngủ của mình, điều cần làm đầu tiên là lau sạch súng đạn. Đi tắm theo tổ, nhiều nhất là ba người. Không được xì xào tên tuổi những đồng chí đã hy sinh. Không được chê bai, lộ với dân những đồng chí có tư tưởng kém, cụ thể trường hợp đồng chí Ti, ai hỏi thì nói đồng chí ấy bị đau ốm, phải trở ra. Không được nói với dân về sự ác liệt trong đó, như pháo, bom, tăng trèo lên hầm… Cấm tuyệt đối, các đồng chí rõ chưa?

Nghe anh em kể lại trận chống càn ngày 22 của C2 ở Nhĩ Trung, điểm cao 21 và 33, mình phục lăn tinh thần chiến đấu của C bạn. Trận đó, ta thương vong cũng khá nhiều. Khương Văn Chi đã hy sinh oanh liệt tại trận. Cái chết của Chi làm cho mình và Hùng đau đớn vô cùng. Chi bị xe tăng đè nát trong hầm cùng hai đồng chí khác.

Mới ngày nào, khi gặp nhau trong Nam (ngày 8 tháng 10), Chi còn siết chặt tay mình, mừng rỡ: “Lân đấy à! Hãy còn “pháo” à? Tốt quá. Vững vàng Lân nhé!” (…)

Còn gì vui bằng, rạo rực bằng, tự hào bằng khi nghe đài phát thanh trịnh trọng đọc tin chiến thắng: “… Ngày 23 tháng 10, quân Giải phóng bắc Quảng Trị đã chặn đánh hai tiểu đoàn địch cùng xe tăng, xe bọc thép ở vùng An Mỹ, Cẩm Phổ, điểm cao 28. Theo tin đầu tiên, quân giải phóng đã diệt được hơn 100 tên và 10 xe bọc thép…” (…) Chính chúng tôi đã đánh đấy! (…) Một mẩu tin chỉ phát trong một phút, nhưng để có mẩu tin đó, chúng tôi đã phải ăn cơm vắt, muối trắng, nằm hàng ngày chờ địch. Phải “tắm” B-52, “tắm” bom (của bọn bổ nhào), “tắm” pháo suốt và trần mình chiến đấu chỉ với những khẩu súng có trong tay. Chúng tôi đã phải đổi mẩu tin đó bằng lòng dũng cảm và bằng mồ hôi, bằng máu! (…)

Tôi yêu mến đồng đội của tôi. Tôi quý trọng những hành động quả cảm của anh em (…)

Tôi yêu mến mảnh đất Vĩnh Linh che chở, đùm bọc. Bàn đạp nhanh gọn cho những buổi ra đi (…)

Ba mẹ và các em của con ơi! Mai này hòa bình, nếu may mắn con còn sống, con sẽ đưa ba mẹ và các em vào thăm nơi đây, thăm lại mảnh đất thân thương này – nơi chúng con đã từng chung sống, từng chiến đấu và đã chiến thắng.