Đeo rất nặng đi “hết đêm này qua đêm khác”. Không biết mỗi đêm đi bình quân bao nhiêu cây số, chỉ biết mười sáu, mười bảy cây là “ngắn quá”. “Tao sợ…” đâu có gì lạ. Quái lạ chính là đã có hết sức ít người sợ đi đến nỗi phải “lủi trốn” như “tao”. Hầu hết không bỏ cuộc, nhưng có người ngủ mơ thấy được “phành phạch” chở đi y như quân địch!

Đã bắt đầu gặp nhiều hố bom. Nhưng vẫn còn thỉnh thoảng gặp “các chị”, “mấy thím”, “một cô”…

Bản lĩnh như “tôi”, thế mà cũng “đã thấy mệt mỏi” và “thèm đủ thứ trên đời”. “Tôi” chỉ là người thôi. Nhưng “tôi” sẽ tiếp tục làm nhiệm vụ như một siêu nhân.
(Thu Tứ)



Nhật ký Hoàng Thượng Lân (2)




25-12-1967

Đêm qua sông Chu, cầu được lát bằng những thanh gỗ cưa mỏng (…)

Qua đến đầu cầu, thấy một túp nhà tranh không còn mái, trơ ra mấy bức vách vàng xám (…) Mấy hố bom thô lố đập ngay vào mắt (…) Mình nghĩ thầm: “Chắc cái cầu này cũng phải lát lại lần thứ mấy mươi rồi!” (…)

Xa cầu được khoảng ba cây số, phía trên bỗng nghe thấy mấy giọng thanh thanh, hình như đang chống chế với những lời đùa cợt của lính trẻ. Gần hơn, thấy rõ ba, bốn chị thanh nữ đi xuống, ngược chiều với đoàn quân, vai mang quang thúng, trông dáng đi biết phải gánh nặng lắm. Cậu P. lém nhất trung đội hỏi trêu:

- Các chị đi mô? Hay là gánh cơm cho chồng đẻ rứa?

- Chồng nào mà đẻ? Tụi em đi đóng thóc để các anh có ăn mà đi đánh Mỹ đấy!

Mình phì cười vì giọng địa phương khi phát âm nghe cứ như “đỏe” và “cúa” của các chị. Đêm đó, mình say hát mãi bài “Vì tiền tuyến” của Đỗ Nhuận. Hát không biết chán và cũng được anh em trên dưới hưởng ứng (…)

Cậu V. đang đêm hành quân bỏ đơn vị đi lủi trốn. Hắn tưởng là thoát nhưng không ngờ người ta lại tóm được cổ hắn, trong lúc hắn đang tính nước vượt qua trạm gác vọt thẳng ra đường quốc lộ. Trở lại đơn vị, mặt hắn vẫn nhơn nhơn. Hỏi sao lại “chuồn”? Hắn đáp:

- Là vì tao sợ phải đi. Đi mệt lắm. Đeo cái ba-lô nặng như chì, mà cứ nhũng nhẵng hết đêm này qua đêm khác, thì làm sao mà đi nổi?

Mình nói với nó:

- Mày còn khỏe hơn một số anh em ở đây, thế sao những anh em đó họ vẫn cứ đi được? Mà họ lại còn phấn khởi, vui vẻ nữa!...

Đại khái là nói nhiều, nhưng với hắn chắc cũng bằng gáo nước dội lên lá môn mà thôi (…)

Tới trạm 6, được phân phát kẹo, đường và thuốc lá. Mấy “thím” bộ đội phục vụ ở đây kể cũng ngoan! Trông cũng xinh tệ. Họ lấy hết hồn mấy cậu lính trẻ, cứ luẩn quẩn mãi bên cái thùng nước, uống không ra uống, mà nhìn thì cũng chẳng ra nhìn nữa! Mình đứng trông cái cảnh ấy mà buồn cười, thật lắm chuyện, về ngủ một giấc có phải là khỏe khoắn hơn không?

Đã vào sâu huyện Nông Cống. Huyện này tương đối giàu có và cũng có nhiều cảnh đẹp. Đêm, địch thả pháo sáng phía xa, đèn dù đỏ gạch lơ lửng, thỉnh thoảng một ánh chớp lóe sáng, chắc lại là bom.

Trời trở gió. Mưa rơi lác đác. Rét. Lạy trời đừng mưa to, mưa to là lắm chuyện, còn là lôi thôi nhiều: trơn ngã, lấm bê lấm bết, không có chỗ để khi nghỉ ngơi mà đặt ba-lô, mà ngồi…

Nằm mơ, thấy mình, thấy máy bay trực thăng phành phạch trên đầu chở anh em đi (…)

Chuẩn bị cho đêm nay đi tiếp sang trạm khác. Hai bên mắt cá chân đã thấy đau và mỏi. Có cái gì bất ổn trong người, hơi hơi lo lắng!

26-12-1967

Viết trong ánh đèn dầu lù mù. Một đêm lạnh. Tối trời, không gian tĩnh mịch.

Vừa hành quân tới đây khi trời mới nhá nhem tối. Lẽ ra còn đi xa nữa, nhưng trên trạm 8 mới bị đánh phá, chưa ổn định kịp, nên anh em phải đóng ở đây, một trạm đón tiếp phụ.

Anh em không ai mệt mỏi với đoạn đường này bởi nó ngắn quá. Chỉ khoảng trên mười sáu, mười bảy cây số trở lại. Tiểu đội mình đóng ở nhà dân, một căn nhà nhỏ xinh xinh (…) Xóm này vừa mới chịu mười tám quả bom ném tới tấp trong vòng năm phút khi trời đã xế chiều (…)

Hôm nay đơn vị khởi hành rất sớm. Trong người mình như có cái gì vui vui (…) Đi đường, nhìn cái gì thấy cũng đẹp cả. Những đứa trẻ con láu lỉnh chuyên chạy theo các chú bộ đội quấy phá cũng được mình dễ dàng tha thứ và chìu theo ý thích của chúng (…)

Cảnh làng ở đất Thanh này cũng khá đẹp (…) Về chiều (…) đây đó tiếng hò gọi nghé xen lẫn tiếng trống tan giờ của hợp tác, tiếng của một bà mẹ gọi con… (…) Một bãi cọ, những thân cây thẳng cao vút như những thân cau, nhiều vô kể. Đôi ba mái nhà còn vương nắng, một cái ao gọn gàng xinh xắn, một cô gái đang rửa rau dưới cầu, thẹn thò liếc nhìn bộ đội đi qua, sóng nước tỏa những quầng sáng nhàn nhạt phản chiếu của ánh mặt trời.

Trăng đã hết, còn lâu mới lại có trăng. Trời tối mù mịt, không thấy lấy một ngôi sao (…) Quân đi trong đêm, bước cao bước thấp (…) Lệnh trên, cấm dùng đèn pin, bật lửa soi đường. Mảnh dạ quang cỡ 2 x 4cm gắn trên đuôi mũ của mỗi người là vật dẫn đường duy nhất.

Mai lại đi sớm. Chút nào trong cơ thể đã thấy mệt mỏi. Thèm đủ thứ trên đời: thèm ăn, thèm ngủ, thèm có thì giờ đi chơi, xi-nê, thể thao, chút “duyên” nào đó!