|
Tố Hữu, “Xây dựng, vui ơi”
Ở Miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước xây dựng lại đất nước. Sau khi sửa sai trong cải cách ruộng đất, thì từng bước tiến hành tập thể hóa sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Từ xây dựng tổ đổi công, tiến lên hợp tác xã; quy mô nhỏ rồi lên hợp tác xã quy mô lớn, từ toàn thôn lên toàn xã. Đồng thời với hợp tác hóa là công cuộc thủy lợi hóa. Hợp tác hóa và thủy lợi hóa tạo nên sự biến đổi rõ ràng ở nông thôn Miền Bắc (…) tạo điều kiện cho nông thôn Miền Bắc phát triển sản xuất lương thực (và) nhờ đó ta có thể rút bớt người ở nông thôn đưa vào quân đội (…) Công trình thủy lợi lớn ở Bắc Hưng Hải là thành công bước đầu của sự nghiệp thủy lợi hóa và tạo ra sự phấn khởi lớn trong nông dân ở Miền Bắc.
Đến năm 1960, công cuộc hợp tác hóa đã cơ bản hoàn thành ở Miền Bắc, làm cho nông thôn có bộ mặt mới hẳn và cũng tạo điều kiện cho Miền Bắc chi viện Miền Nam tốt hơn.
Chúng ta cũng đã bắt đầu xây dựng những công trình công nghiệp quan trọng, xây dựng thủy điện Thác Bà, nhà máy điện Uông Bí và một số cơ sở công nghiệp làm ra hàng tiêu dùng như các nhà máy dệt, đường, giấy v.v. (…)
Một vấn đề cấp bách đặt ra là phải nhanh chóng đào tạo một đội ngũ cán bộ (chuyên phụ trách các công tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật v.v.) (…) cần có kế hoạch gửi lưu học sinh và cả cán bộ sang một số nước anh em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, để đào tạo và bồi dưỡng nâng cao (…) Thật ra, từ năm 1951, giải phóng xong biên giới phía bắc, ta đã bắt đầu gửi lưu học sinh (…) đến năm 1990, Liên Xô và các nước anh em đã đào tạo cho ta hơn 70.000 người, trong đó có hơn 3.600 người có trình độ sau đại học (…)
Có thể nói đến năm 1960, đối với cách mạng ở Miền Bắc, những khó khăn do hậu quả chiến tranh, do sai lầm trong cải cách ruộng đất đã lùi lại phía sau. Cuộc sống dần trở lại bình thường và bắt đầu có phần khởi sắc. Trong bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng” tôi viết
“Mùa xuân đó, con chim én mới Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh Đời ta gương vỡ lại lành Cây khô, cây lại đâm cành nở hoa…
(…)
Năm 1961, cách mạng Miền Nam dưới ánh sáng của Nghị quyết 15 đã nhanh chóng phát triển thành cao trào. Ở Miền Bắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu khởi động nhờ định hướng của Kế hoạch Năm năm lần thứ nhất, và như Bác Hồ đã viết trong lời chúc Tết: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Những ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tôi viết liền được ba bài thơ dài: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Ta đi tới”, “Việt Bắc”. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba (tháng 9/1960), có lẽ sự hưng phấn trong tôi có cái gì đó giống như thế, nên sau trường ca “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, “Bài ca mùa xuân 1961” cũng là một bài thơ mang được khí thế và tinh thần phấn khởi cách mạng trong thời kỳ mới:
“Rét nhiều nên ấm nắng hanh Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng? Giã từ năm cũ bâng khuâng Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường”. (…) “Một vùng trời đất trong tay Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng! Việt Nam dân tộc anh hùng Tay không mà đã thành công nên người! Có gì đẹp trên đời hơn thế Người yêu người, sống để yêu nhau Đảng cho ta trái tim giàu Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!”
(…) Chưa bao giờ tôi cảm thấy cái vui lớn của đất nước lại hòa nhịp cùng cái vui riêng của mình đến thế!
“Chào xuân đẹp, có gì vui đấy Hỡi em yêu, mà má em đỏ dậy Như buổi đầu hò hẹn say mê Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về…”
Vào thời khó khăn ấy, chúng ta đi lên từ nghèo khó, chắt chiu, mà lòng phấn khởi với cuộc đời mới:
“Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết Ta nắm tay nhau xây lại đời ta Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà Chuồng lợn, bầy gà, đàn rau, ao cá Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!” Với Kế hoạch lần đầu được vạch ra, bài thơ cũng dự báo tương lai tươi sáng của đất nước (…)
“Đi ta đi! Khai phá rừng hoang Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng? Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy? Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?”
Bài thơ đang vui, bỗng lắng xuống vì nhớ đến Miền Nam đang rên siết dưới gót giày quân Mỹ xâm lược và ngụy quyền Ngô Đình Diệm. Hồi đó, chúng ta đã gửi vào Nam những đoàn quân chiến đấu. Họ đi tàu hỏa vào Khu Bốn, sau đó bí mật xuyên Trường Sơn theo phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”. Lòng tôi đang vui với Miền Bắc, bỗng thắt lại, xót xa Miền Nam thân yêu:
“Tôi viết cho ai bài thơ 61? Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam bộ... Ôi đâu phải con tàu! Trái tim ta đó Tiếng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi!”.
Lúc này, phong trào Đồng Khởi đã thổi lên một luồng phấn khởi mới:
“Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng Miền Nam dậy, hò reo náo động!”
Đường lối cách mạng đã được xác định, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tư tưởng của toàn Đảng và toàn xã hội ta (…) Mặc dầu nơi này nơi khác còn khó khăn, nhưng không khí cách mạng và chủ nghĩa anh hùng trong kháng chiến chống Pháp lại trỗi dậy và nâng cao hơn trên cả hai mặt: xây dựng ở Miền Bắc và đấu tranh ở Miền Nam.
(Tố Hữu, Nhớ lại một thời, nxb. Hội Nhà Văn, 2000. Nhan đề phần trích tạm đặt.)
|
|