Tô Hoài, Tự truyện (chương 7)




Nhớ lại năm làm báo Cứu Quốc Việt Bắc (1) bao giờ tôi cũng nhớ mùa hoa mơ và những ngày áp Tết. Hoa mơ nở trắng các bản, trắng đầy trong cánh đồng và đầu suối. Bạt ngàn, trắng ngần rừng mơ chân núi Phia Bioóc.

Mùa đông đầu tiên tôi ở rừng, rét cóng cá. Cả ngày mờ mịt trong sương mù và (?) ánh lửa sưởi. Khi trời lóe nắng lại chỉ thấy hoa mơ trắng cửa rừng càng rét thêm (...)


(Trở lại thời điểm trước khi bắt đầu làm báo CQVB) (Ngày 7 tháng 10 năm 1947) Sớm hôm ấy, sương mù mịt trên Đèo Giàng. Tiếng máy bay ầm ầm phía Bắc Cạn. Đến trưa, được tin địch nhảy dù thị xã (...)

Cơ quan dự bị của chúng tôi chạy sâu vào giữa châu Chợ Rã. Làng Khuổi Khún chỉ có ba nhà dân tộc Tày (...) Xuân Thủy đã về được (...) Em Cầu hôm sau mới về đến (...) Cầu bị lính dù bắt giữa thị xã (...) đem ra bến Cầu Phà để bắn cùng đám người chúng lôi từ trong phố ra. Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố (...) cũng bị bắn chết chuyến ấy. Nhưng Cầu thấp bé chạy thoát được. Cầu chạy ngược về Chợ Đồn. Đằng ấy cũng có Tây xuống dù. Cầu lại đâm vào rừng. Rồi làm thế nào cũng lần được về Khuổi Khún (...)

Bọn Tàu Tưởng cho quân Pháp mượn đường. Pháp ở Lạng Sơn mượn đường ô-tô chở quân vòng sang Tàu rồi bất chợt ập vào thị xã Cao Bằng. Mất Cao Bằng và Bắc Cạn, chúng tôi bị chẹt vào giữa (...)

Đương dựng lán trong cửa rừng ở tạm, một toán quân Pháp lên châu Chợ Rã, qua ngay ngoài đầu đường (...) Vượt rừng sang Bản Hậu - một xóm Tày ở tựa chân núi Phia Bióoc. Nhưng đấy cũng chỉ cách đường độ hai ki-lô-mét. Suốt đêm, moọc-chi-ê câu vào núi. Tiếng ình oàng dội ra. Không biết nó bị ta đánh chặn hay đương tiến vào phía nào. Các làng ven đường, Khuổi Khún, Thạch Ngòa và những Bản Pục, Phiêng Phường, nhà bị đốt, khói bốc lên, đến tận tối còn đỏ ngòn. Mọi nhà đã lánh vào ở rừng. Chạy giặc không phải là cái gì bối rối với người ở đây (...) đã thạo vườn không nhà trống từ thời khu giải phóng. Từ hôm Tây nhảy dù ngoài tỉnh làng nào cũng vắng tanh (...)

Chúng tôi (...) Mỗi chặp tối, lại đi tìm một chỗ phẳng trên sườn núi để ngủ tạm. Nhưng cũng chẳng đêm nào yên một chỗ. Đêm ngoài trời trên núi, không dám nhóm lửa. Chúng tôi trùm chăn, trùm cả rơm rạ lên đầu ngủ ngồi vạ vật ở sườn núi đá. Cái màn quấn bù xù quanh cổ (...) Nam Cao đã được chi bộ kết nạp vào Đảng ở núi Phia Bioóc trong những ngày ấy.

Đêm nào cũng vất vả thế, không được. Phải tìm nơi chắc chắn hơn (...) Chúng tôi lên các làng Dao rải rác đỉnh núi. Sườn đá dốc dựng đứng. Cỏ tranh cứa xước chảy máu cổ chân và ngón tay. Trèo một quãng, thở ra cả hai tai.
Trời dần tan sương. Trông xuống Phiêng Phường ngoài đường thấy ô-tô Pháp đậu thành từng cụm, chốc lại rời ra, bò lên bò xuống như những con bọ hung. Nom rõ trên xe, có bọn Tây cởi trần, mình đỏ hắt.

Sau lưng chúng tôi rừng đại ngàn. Triền Phia Bioóc che chở cho chúng tôi. Núi Phia Boóc - tên của khu giải phóng đặt từ lúc bí mật là núi Cứu Quốc, cao chất ngất chạy dài từ chân ngọn Phia U-ắc trên châu Nguyên Bình xuống (...) chập chùng đến đầu tỉnh lỵ Bắc Cạn thấp xuống tỏa ra những cánh rừng lúp xúp. Người Tày ở (...) chân núi. Trên đỉnh, các làng Dao mù mịt trong sương. Có thể lên Cao Bằng, xuống Thái Nguyên chỉ qua các xóm chóp núi thưa thớt này.

Tôi có những cảm giác háo hức. Chỉ vài ngày lên đây, những “noọng” Liễu, những “nhình” Pin cứ dần dần thấy là những người đẹp. Các làng Dao trên núi đã là trạm giao thông của khu giải phóng trong thời bí mật. Đội Võ trang Tuyên truyền từ Cao Bằng xuống đã qua núi Cứu Quốc về Tân Trào. Trận quân cách mạng hạ đồn trên Tam Đảo của Nhật đã vang dội xuống đồng bằng từ khi ấy. Các dân tộc trên núi giác ngộ từ lâu. Trong bóng rừng âm u, những làng Dao, làng Tày đã là những làng “Việt Minh hoàn toàn” từ nhiều năm trước. Cuộc sống còm cõi của tôi ở thành phố bấy lâu, đến đây đã mờ xa.

Chúng tôi lên Cốc Phường, qua Vàng Kheo, sang Píc Cáy, ngọn núi cao nhất. Đến một xóm Dao ở Khui Váng, một cái khe cạn sâu trong rừng vầu tối ẩm ướt. Chủ nhà đem dao ra rừng lấy về một giỏ nấm hương. Những cái nấm còn ướt sương, nhoáng màu nhung nâu. Nấm xào suông với muối ăn thơm như thịt nướng. Tôi biết thêm sự tích núi Phia Boóc - Phia Boóc là Núi Hoa, núi hoa thơ mộng. Bởi vì trên núi có dòng suối, ban đêm nước chảy lóng lánh cát vàng cát bạc sáng như rắc hoa. Tôi ngồi giữa yên tĩnh rừng núi Phia Boóc và những làng Dao. Tưởng như bọn Tây đang đốt phá dưới chân núi kia là cái bóng chập chờn ngoài cuộc đời này (...)

Một buổi tối, quanh ánh lửa sưởi trong hốc núi ở Cốc Phường có một cuộc họp quan trọng của cơ quan. Xuân Thủy báo tin: báo Cứu Quốc Trung ương sẽ chuyển về căn cứ khu 12. Nhưng nhiệm vụ tuyên truyền tổ chức đồng bào Việt Bắc đương trực tiếp chiến đấu càng phải phát triển. Đoàn thể đã quyết định thành lập báo Cứu Quốc Việt Bắc phát hành ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn (...) Tôi được phân công chịu trách nhiệm chung và làm bí thư chi bộ Đảng của báo mới thành lập (...) Một mình Nam Cao tòa soạn (...)

Cơ quan chính rút đi (...) Mấy chúng tôi ở lại. Chủ nhiệm Việt Minh Toàn giúp cho chúng tôi mặc như đồng bào địa phương. Quần áo chàm, túi chàm, mũ nồi chàm. Toàn lại đưa chú Mộc đến làm liên lạc. Mộc người ở Thạch Ngòa. Tối đến, chú Mộc dạy chúng tôi tiếng Tày (...)

Tôi bắt đầu làm quen với cuộc sống rừng núi (...) Mọi việc thật mới, nhưng cũng thật thích thú.
Tôi mở một lớp huấn luyện cán bộ xã (...) Tôi giảng bài, cũng tự giảng cho mình được một hiểu biết và một tình cảm. Mơ ước và lý tưởng sự thật đơn sơ như lớp huấn luyện này.

Đến xóm người Dao ở Cốc Phường xa hẳn đường cái, có thể tránh được Tây đánh úp thình lình. Gọi là xóm, kỳ thực chỉ ba túp lều nền đất. Vào tận nơi vẫn chỉ thấy cây và đá, chưa nhận ra chỗ người ở. Ở nhà Chẩn. Chẩn còn mẹ, em gái là Liễu và người em trai, Pảo. Mới tháng trước, Pảo đương ngồi trước cửa, có một con gấu đi qua. Con gấu tát Pảo một cái, Pảo mất một bên má. Bây giờ, mật gấu bôi còn vàng xuộm cả mặt (...) Ở đây, mỗi nhà đều có một chỗ trong rừng, bí mật, chỉ nhà mình biết. Nam Cao và Trần Đình Thọ theo Chẩn (...) Trên đỉnh núi, trong rừng sâu, cái lán nhỏ nhô ra bên một gốc trám cổ thụ. Phải xuống một quãng mới tới ngọn nước. Hàng ngày, Nam Cao và Trần Đình Thọ xuống lấy nước về thổi nấu (...) Còn tôi, khi xuống xã, khi đi họp châu, họp tỉnh, khi ở chỗ nhà in dưới lán gần làng. Thỉnh thoảng mới có đêm lên đây.

Chúng tôi lại đổi sang núi Vàng Kheo, trên lối đi Píc Cáy. Vàng Kheo khuất nẻo ở xóm, trông vào rừng nứa. Ở Vàng Kheo, ngồi trong nhà thông ra được bốn phía. Phía rừng nào tới cũng phải qua cánh nương trồng trước mặt. Không thể bị ập bất ngờ. Ngày ngày, chú Mộc liên lạc xuống nhà in. Ở rừng dưới đã bắt đầu dựng lán và lắp máy. Vàng Kheo cũng chỉ quạnh quẽ có ba nhà. Đêm rét buốt quanh bếp lửa, cả hai nhà bên đều đến ngồi chuyện râm ran (...)

Lán dựng cho chiếc máy mi-néc đã làm xong. Nhưng Trần Đình Thọ vẫn lăn li-tô. In truyền đơn hộ trung đoàn 72 và cô Ngọc Bảo, cán bộ phụ nữ châu Chợ Rã. Cái máy mi-néc chỉ đủ làm việc báo. Bây giờ không phải chỉ một mình Trần Đình Thọ mà cả “toà soạn” Nam Cao cũng lăn li-tô (...) .

Ở Vàng Kheo trông thẳng qua đèo Giàng bên kia. Người Dao ở Vàng Kheo bảo thế. Bởi sương mù chẳng mấy khi trông thấy núi. Còn nói đâu đến con đường đi Chợ Rã, Tây đóng ở Phiêng Phường, ở Phủ Thông, cả tuần cả tháng lặn vào bóng sương. Mùa đông lạnh tê, suốt ngày mù mịt. Những đêm trăng, thấy sương phủ trắng như bông. Đôi khi bóng sương hé ra, chỉ thấy núi xanh, núi xanh chất ngất dán lên nhau. Tưởng như trên thế gian, độc còn có mỏm Vàng Kheo và những ngọn núi xanh như thế. Thỉnh thoảng, tiếng súng bên đèo Giàng, tiếng gầm gừ của những đoàn xe địch chạy lên Cao Bằng. Cái hiu quạnh tan được chốc lát. Nhưng bây giờ không còn lo như ngày đầu địch nhảy dù. Tự vệ các làng đã được củng cố. Chủ lực huyện đi hoạt động. Cả Trung đoàn 72 về nữa.

Đường núi từ Phia Boóc sang Lùng Trang qua Pác Trang, tỉnh ủy Bắc Cạn đóng ở đấy. Chẩn đưa tôi đi. Chặp tối, đến Píc Cáy. Tôi đã biết cách nhận xét lúc đi giữa rừng và khi sắp đến làng xóm. Chưa thấy suối, nhưng trông thấy bụi cây lượn lô xô, biết đấy có nước chảy. Nơi có người ở, nhiều vết người và những loài vật nuôi trong nhà. Đường quang hơn, chân trâu lỗ chỗ nhiều hơn. Đến lúc thấy có phân lợn, biết sắp đến nhà. Chẩn bảo: “Đồng chí Tư đứng lại đây, tôi vào trước” (...) “Đứng lại làm gì?”. “Có tiếng lạ” (...) Chẩn bảo tôi đứng lại để mình vào trước. Thế thôi. Can đảm và lòng trung thực dung dị. Lúc sau, Chẩn trở ra nói: “Có bọn người ngủ nhờ” (...) câu chuyện cẩn thận ấy của Chẩn, tôi nhớ mãi.

Bút ký Ở rừng của Nam Cao viết trong những ngày ở núi Vàng Kheo. Hai buổi thổi cơm ăn xong, lăn li-tô một lúc, lại ngồi lúi húi viết. Cả cái truyện ngắn (...) “Đôi mắt” cũng được viết ở chỗ đèo heo hút gió ấy. Cũng ở đấy, tôi bắt đầu viết tập truyện ngắn Núi Cứu Quốc. Một lần xuống Đại Từ về Thái Nguyên, tôi đã đem đưa những sáng tác của chúng tôi cho Nguyễn Huy Tưởng ở hội Văn Nghệ.

Suốt ngày, Nam Cao ngồi bên thành chuồng gà cạnh bếp. Chuồng gà ở dưới đầu giường, nghe tiếng gà đinh tai ngay dưới gáy. Nam Cao tựa lưng vào chuồng gà, bảo ngồi thế cho ấm, bọ mạt bò vào lưng cắn không biết ngứa, đã quen. Bao giờ Nam Cao cũng có cách cắt nghĩa về bất cứ một cử chỉ nào của mình. Anh thường lý luận và nhận xét khẳng định thiết thực, lại vui vui, gàn gàn. Anh bước ra, đứng đái ở đầu sàn. Những con trâu quanh đấy đã biết lệ, nghe tiếng người, liền chạy lại, hếch mũi lên, khoan khoái hứng nước thải. Bao giờ anh cũng đợi cho trâu đến đông. Bảo là khỏi phí. Trâu núi cũng thiếu muối. Ở nước đái, ở lưng áo và ở chiếu có hơi muối. Phơi áo phơi chiếu cẩn thận, kẻo trâu chén mất. Anh lại bảo: hút thuốc lá tất nhiên dẫn đến bệnh ho lao. Nói thế, những khi Trần Đình Thọ đẽo cho chúng tôi mỗi người một cái tẩu gỗ, đầu tẩu tạc một mặt Tây mũi lõ, Nam Cao hút tợn. Lúc ấy anh cười mà nói rằng hút thuốc chống rét cần hơn, nhiễm lạnh còn dễ ho lao hơn hút thuốc. Cũng phải nói, thuốc lá núi Phia Boóc những năm ấy cũng là cái chống rét hiệu nghiệm. Lưng có chuồng gà ủ, - mặc dầu bọ mạt bò rần rần trên người. Trước mắt có lửa sưởi, trên mặt đượm hơi thuốc lá. Đấy cũng là những phương tiện giúp đỡ tòa soạn làm việc (...)

Pháp đã rút khỏi các châu Chợ Đồn, Chợ Rã về chụm lại ở thị xã Bắc Cạn, rồi Cầu Phà, Phủ Thông, Bằng Khẩu, Hạ Hiệu, Ngân Sơn, dọc đường lên Cao Bằng. Bây giờ, nơi đóng của Pháp gần chúng tôi nhất là ở đồn Phủ Thông, cách khoảng mười ki-lô-mét.

Chúng tôi rời xuống ven đường và ở tập trung cho tiện công việc. Khe suối Thâm Phạ trên sườn núi ngay đầu làng Bản Hậu trông xuống đường Chợ Rã. Những cây mắc có - cây hạt dẻ cao, quả rụng gai nhọn và sắc. Đến mùa hạt dẻ, mùa trám trắng, sáng nào quanh gốc cây cũng thấy vết chân hươu, chân gấu. Lán chúng tôi cheo leo trên nguồn nước, hai bên um tùm những bụi dong rậm xanh đen, bên các lán của bà con trong làng (...) Sàn nhà bắc trên dòng nước mà mùa rét đến chỉ còn một vệt ẩm, phải đào xuống, cắm máng vào, mới thấy nước thấm ra. Bắt đầu những ngày mưa xuân mới, mưa bụi rồi mưa dầm rả rích. Suốt đêm nước mưa đọng trên cây cao rơi lùng phùng đánh trống xuống mặt lán lá dong và những bụi dong quanh nhà - nghe còn xa vắng hiu quạnh hơn khi ở Vàng Kheo.

Trên Cốc Phường tôi để một lán muối. Phải đem muối xuống, kẻo muối chảy hết. Ở Việt Bắc, hạt muối còn quí hơn gạo. Hết mực, hết giấy còn ngồi đợi được nhưng muối ngày nào cũng phải có ăn. Những bì muối giấu giữa rừng, chỉ một mình Chẩn và tôi biết. Chẩn lợp lán, vác dó muối vào, buộc treo lên những dóng cây cao, phủ một túm lá cọ. Chẩn trèo lên cành cây trông xuống mặt đất tối lầy lội, kêu: “Hỏng rồi! Hỏng rồi!”. Tôi chưa kịp hiểu thế nào. Chỉ trông thấy bùn lẫn cứt trâu, biết có trâu qua lại rừng này nhiều. Ngay lúc ấy, một đàn trâu xông đến, đen kịt, hung hăng húc, đánh sừng quanh gốc cây. Đàn trâu lên phá kho muối. Trên thân cây nước muối chảy xuống. Thân cây trơ trụi, toác cả vỏ. Tàu lá cọ buộc che mưa kêu lạt xạt, có tàu đã rơi xuống. Những con trâu cúi liếm xồn xột, liếm đến tan cả tàu lá. Vẫn còn hơi muối, lại càng bị kích thích. Tiếng sừng húc, tiếng lưỡi liếm xuống đất, tiếng móng va nhau lộp cộp. Những con trâu nghênh sừng trông lên. Đốm mắt trâu đỏ đòng đọc. Trâu đương hăng tiết. Trâu sắp phát điên. Chúng tôi phải trèo trốn lên một cành ngõa cao. Chẩn cúi xuống, giơ khẩu súng mút bắn vu vơ mấy phát.
Đàn trâu bỗng chạy toé. Phút chốc, cánh rừng vắng hẳn. Chẩn ở lại đấy canh không cho trâu trở lại. Đêm ấy, Chẩn ngủ trên cành cây, trước những bì muối. Sớm hôm sau, các nhà ở Vàng Kheo và Cốc Phường - cả mấy chú bé, cô bé nhà đồng chí Quân, nhà ké Hùng và em Liễu, chị Pin cũng theo vào, vác cả kho muối xuống núi ngay buổi sáng.

Báo đã được in máy cẩn thận. Mỗi tuần hai số, bốn trang bằng cái quạt nan. Trong cả mấy đống tài liệu báo Cứu Quốc Trung ương để lại, tập báo Việt Nam độc lập in hồi bí mật ở Cao Bằng là quý nhất. Chúng tôi học báo Việt Nam độc lập của Bác Hồ mà làm báo Cứu Quốc Việt Bắc. Một cái tin ngắn Nam Cao cũng viết có nháp, sửa đi sửa lại. Viết rồi đem đọc cho chú Mộc nghe. Có khi đọc cả cho các em bé ở các lán quanh đấy hay quấn quít đến chơi với chúng tôi. Rồi lại sửa lại. Cứ thế, một cái tin, một câu ca dao cũng làm theo lối này. Chúng tôi chữa lại, tờ báo nôm na hơn, dễ hiểu hơn. Đôi khi, bài ca dao của Nam Cao ký tên là Suối Trong lại in lời dịch ra tiếng Tày của Nông Quốc Chấn hoặc một bài xã luận cả hai thứ tiếng Kinh và tiếng Tày. Những công việc tưởng dễ, đối với những người đã làm nghề viết như chúng tôi. Vậy mà chẳng dễ (...) Loay hoay vẫn chưa yên tâm, còn chữa được nữa. Tôi nhớ năm trước viết bài hai trăm chữ cho báo bí mật ở Hà Nội.

Được nhiều thư của bạn đọc gửi về hỏi ý kiến. Bước đầu đã tới những điều mà chúng tôi mong muốn. Tờ báo là bạn của người đọc. Những lá thư mộc mạc kể đủ mọi chuyện, cả chuyện gia đình, chuyện làng xóm, cách cư xử... Ở báo Việt Nam độc lập khi trước, có cả bài khuyên cán bộ nữ lúc đi công tác đương có kinh nguyệt không nên lội suối nhiều và có mục kêu gọi bạn đọc ủng hộ chanh để tòa báo in li-tô (...) Buổi tối, chúng tôi ngủ cả trong một lán. Ở sườn núi bên kia, chiếc máy in mi-néc đạp chân lạch cạch, đều đều trong ánh nến nhựa trám. Sáu Hùng đứng máy thật oai. Một máy con con hai bát, chân đạp, tay lật giấy, như người đạp máy khâu. Thế nhưng với chúng tôi lúc ấy, cái máy in bé nhỏ nhất trong các loại máy in này đã là một bước tiến xa. Từ hòn đá, hộp mực và con lăn của họa sĩ Trần Đình Thọ lên cái máy của công nhân Sáu Hùng nhả ra những tờ báo vuông vắn chữ nối đều tăm tắp.

Cơm chiều xong, trời cũng vừa tối. Bóng rừng sụp xuống. Rừng Thâm Pha tối đen như ai bịt mắt. Chúng tôi xúm quanh cái đài (...) Cái “suối mơ” chảy ngay dưới sàn nằm (...) cho nước thổi nấu, rửa bát và ban đêm có thể đái xuống đấy, khỏi ra ngoài, hãi gặp con gấu về tìm quả, hạt dẻ (...)

Trời đã rét ngăn ngắt. Những cây mơ nở trắng ngẩn ngơ các đầu xóm báo hiệu lại sắp năm hết Tết đến (...) Ở các mảnh ruộng chân rừng cạnh ngọn nước đã thấy cắm lên những cây tre thẳng tuột, quấn giấy vàng, trên đầu buộc những vòng tròn. Đấy là cột vòng để trai gái ra đánh còn, đánh yến (...) Cô Nhạn, cô Eng áo chàm mới. Những quả còn vừa khâu xong tua đỏ tua vàng. Chúng tôi cũng ra chơi còn. Kháng chiến ở rừng vẫn có Tết như thường.

Giấy và mực, kho chính vẫn để gần Phủ Thông, chỉ cách đồn địch một quãng - ngay trong rừng Vi Hương, chỗ đóng cơ quan khi Tây chưa nhảy dù thị xã. Kho trong rừng phải cắt lượt đi trông coi. Bởi hàng ngày con hươu, con hoẵng, con chuột đến phá, nhất là mối (...) Cách vài ngày lại phải có hai người xuống cùng dân quân tắt qua rừng, đến xem xét kho. Nhưng cứ như thế nữa, không được. Đất mới như nhử mối đến, nhiều mối quá. Phải có người ở luôn. Thế là Phúc Mơ xung phong đi coi kho. Phúc Mơ thợ nhà sách, từ khi lên Bắc Cạn chuyên làm lán, đánh tranh lợp nhà. Tên anh là Phúc, các bạn hay gọi là Phúc Mơ, bởi anh thích văn thơ và có mộng viết văn (...) Em Tước đòi theo (...) Tước là một em bé liên lạc ở cơ quan từ Hà Nội đi (...)Hồi còn ở Hà Nội, ở nhiều cơ quan, ngày nào cũng có những em thiếu niên đến xin lĩnh công tác (...) Thời Nam tiến nhiều em trốn nhà bám theo tàu, nhảy lên tàu. Có khi rủ nhau lập thành tiểu đội, trung đội rồi xin gia nhập đoàn quân Vệ quốc (...) Kho tàng bên ấy chẳng qua chỉ ném tạm vào rừng. Tây trong Phủ Thông, nếu hôm nào nó đốt bớt rừng xung quanh, sẽ đi đời mấy cái kho. Đằng nào sang giêng cũng phải tính bốc đi (...) Trước khi đi, chi bộ tổ chức kết nạp Phúc Mơ vào Đảng (...) Đêm ấy, Phúc Mơ kể: “Anh ạ, tôi nhớ bố mẹ tôi, tôi thương bố mẹ tôi, bố mẹ tôi chết năm đói cả rồi” (...) Phúc Mơ làm lán ở cách kho một quãng (...) Như vậy, vừa xa đồn địch vừa bảo đảm bí mật kho tàng (...)

Tết bây giờ mới đến. Nhưng vẻ Tết đã đến từ hôm hoa mơ trắng ngần đầu rừng. Anh em quảy sang lán Phúc Mơ gạo và thịt lợn, thịt gà đã kho sẵn, cả những xâu bánh tày của bà con trong làng đem cho cơ quan ngày Tết (...)

Ngoài giêng (...) Xế trưa, tôi đang họp với xã (...) Mộc vào (...) “Tây đốt kho giấy của ta ở Phủ Thông rồi”. Tôi về ngay (...) (Một cụ già người địa phương kể:) “Hôm qua, hai cháu đến lán nhà cụ chơi. Sáng nay hai cháu xuống suối lấy nước gặp lính Tây. Có người ta trông thấy mà. Còn trông thấy cả Tây theo hai cháu về kho đấy. Nó đốt kho khói đầy rừng kia. Thế là hai cháu làm phản, đem Tây về đốt của cải của đoàn thể ta” (...) Chúng tôi bàn cách chuyển lán đương ở (...) Phải đề phòng khả năng xấu ấy. Có thể Phúc Mơ dẫn Tây sang đây (...) Nhưng tôi phân vân, thật phân vân. Tôi không thể hình dung được Phúc Mơ lại như thế. Tôi bảo anh em không vội. Có gì, mai hãy chuyển cho cẩn thận, và không nên làm hoang mang bà con các lán quanh đây vẫn chưa biết việc xảy ra bên Phủ Thông. Chúng tôi ở lại. Đêm ấy cắt canh gác suốt đêm. Chúng tôi làm lặng lẽ. Nhưng chỉ đến chập tối, bà con đã biết cả. Không một khe rừng nào thoi thóp ánh lửa. Người ta đã dọn đi hay ở nhà mà không dám đốt lửa. Tự nghĩ thấy xấu hổ. Cơ quan cách mạng mà có người phản bội để lo lắng cho làng xóm. Cả đêm không ai chợp mắt.

Sáng sớm (...) sương phủ trắng trên đèo Giàng. Thật là ngày rồi. Một đêm yên tĩnh (...) Tôi lại nghĩ đến Phúc Mơ. Phúc Mơ không thể phản bội (...) Sáu Hùng lại sang Phủ Thông (...) Đến giữa trưa, Sáu Hùng đã về, đi nhanh thật. Sáu Hùng nói to: “Thằng Phúc Mơ tinh thần lắm. Không phải nó dẫn Tây vào đốt kho đâu. Kho giấy vẫn còn nguyên. Tao vào tận nơi xem rồi mới về đây mà”. Câu nói đó của Sáu Hùng đem lại cho mọi người cái nhẹ người. Không những vì kho không bị đốt, mà vì biết Phúc Mơ không phản bội.

(Chuyện xảy ra, người trông thấy kể:) Buổi sớm, Phúc Mơ và Tước ra suối lấy nước (...) bị bọn lính Pháp đi lùng dọc bờ suối bắt được (...) đánh ngay tại chỗ. Phúc Mơ chỉ nhận là người trong làng đi kiếm củi. Hai anh em đều mặc quần áo chàm như người ở đây. Nhưng em Tước lại thắt cái thắt lưng kiểu bộ đội. Thế là chúng nó cứ đánh, đánh mãi. Rồi chúng bắt phải đưa về chỗ ở (...) Bọn Pháp vẫn nghi ngờ, lại đánh (...) Rút cuộc, chúng đốt lán và dẫn hai người đi theo (...) (Hẳn bởi qua trò chuyện đã biết Phúc Mơ và Tước làm công tác giữ kho, khi nghe kể vậy cụ già đinh ninh nơi bị đốt là kho.)

Tôi đến họp với các xã, kể cho cán bộ xã nghe tinh thần Phúc Mơ và em Tước dũng cảm bảo vệ kho như thế nào.

Mấy hôm sau, chuyển được hết kho giấy mực về. Các làng Dao ở Nà Đông, Cốc Phường, Vàng Kheo, Pic Cáy lại xuống khuân kho cho chúng tôi. Người Dao đi rừng như hổ đi, cứ theo hướng, không cần đường. Vào tận kho, dỡ giấy mực hai ngày liền, mà Pháp ngoài đồn Phủ Thông không hay biết gì (...)

Đầu mùa hạ, trung đoàn 88 đánh tiêu diệt Phủ Thông.

Bộ đội vào cứu được một số đồng bào. Nhưng không thấy Phúc Mơ và em Tước.


1973