Làm dây siết Nhím khó nhọc vô cùng: “Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét (...) những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá (...) gặp ruộng lầy (...) phải ngụp trong bể bùn”.

Và dĩ nhiên Nhím đâu chịu nằm yên, mà bắn “lông nhím” ra cực kỳ ác liệt: ‘Khi (...) đã dài hàng chục ki-lô-mét (...) không còn cách nào ngụy trang (...) mỗi tấc chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm (...) Máy bay địch liên tiếp thả đèn dù (...) ném bom (...) Ban ngày, địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác, san lấp những đoạn hào, gài mìn”.

Có một lần, địch bằng cách nào đó biết chính xác vị trí một đơn vị súng máy cao xạ của ta. Thế là “pháo (...) bắn dữ dội rồi xe tăng tiến lên (...) tràn qua (khu vực bộ binh bảo vệ cho đơn vị này) tác xạ pháo và liên thanh (vào) trận địa phòng không trống trải”... Ta bị tổn thất và thiệt hại đáng kể, nhưng nó cũng phải trả giá đắt.

Ta làm Nhím phá, đôi bên cùng cố hết sức. Kết quả là “mỗi ngày qua, các đường hào lại kéo dài thêm (...) bộ binh đã chuyển từ nơi trú quân ra ở ngay tại những đường hào mới đào xong (...) một số đơn vị lựu pháo cũng rời (...) các dãy núi (...) tới những vị trí mới ở gần mục tiêu hơn”.

(Thu Tứ)



Võ Nguyên Giáp, “Trận phản kích ngày 28-3-54”



Thời gian dành cho việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công trong đợt 2 là 10 ngày. Những tuyến chiến hào vạch ra trên bản đồ ước tính dài khoảng 100 ki-lô-mét (...)

Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, chúng ta thấy cần có hai loại đường hào: đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội lớn; đường hào tiếp cận địch của bộ binh. Đường hào trục sẽ chạy một vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm. Đường hào bộ binh sẽ chạy từ những vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang đường hào trục, tiến vào những vị trí địch mà ta định tiêu diệt. Các loại đường hào đều có chiều sâu 1,7 mét, không quá rộng để bớt tổn thất khi bị bom pháo và giảm khả năng bộ đội di chuyển bị địch phát hiện. Đáy hào bộ binh rộng 0,5 mét, đáy hào trục rộng 1,2 mét. Dọc đường hào bộ binh có hố phòng pháo, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng để đối phó với những cuộc tiến công. Việc xây dựng trận địa phải tiến hành ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó, và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận để phân tán sự chống phá của địch.

Đại đoàn 308 phụ trách phía tây, các đại đoàn 312 và 316 phụ trách phía đông. Trận địa phía tây và phía đông gặp nhau một đầu ở đồi Độc Lập, một đầu ở bản Cò Mị, kết hợp thành một đường vòng rộng ôm lấy cánh đồng Mường Thanh. Trung đoàn 57 của 304, được tăng cường một tiểu đoàn của 316, có nhiệm vụ xây dựng một trận địa hình cánh cung, chạy từ đông sang tây, cắt rời phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm Mường Thanh (...)

Trước đợt 1 chiến dịch, bộ đội ta đã tiến hành xây dựng trận địa. Nhưng qui mô lần này rộng lớn hơn rất nhiều (...)

Phải có một thời gian biểu hoàn toàn mới cho bộ đội. Buổi sáng, là giờ ngủ. Khoảng sau bữa cơm trưa tới bữa cơm chiều là thời gian chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt cành lá ngụy trang. Sau bữa cơm chiều, từ chỗ trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian đào trận địa. Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét, đào trận địa mồ hôi vẫn tuôn chảy. Gặp những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá, bàn tay các chiến sĩ phồng rộp, rớm máu. Nhưng khổ nhất vẫn là khi gặp ruộng lầy. Mọi người phải ngụp trong bể bùn, dùng tay, dùng xẻng, mũ sắt, có lúc cả áo mưa để đựng bùn đổ đi. Sau đó, lại phải đóng cọc, chèn phên hai bên thành hào phòng sụt lở. Những đêm mưa, ở nơi đất trũng, nước đổ vào đường hào, mọi người bì bõm giữa bùn nước. Nước mưa chảy tràn trên mặt, nhưng vẫn không ai ngừng tay (...)

Khi đường hào đã dài hàng chục ki-lô-mét trên cánh đồng thì không còn cách nào ngụy trang để che mắt quân địch, mỗi tấc chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào mà chúng đã phát hiện ban ngày. Máy bay địch liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới cho những trận oanh tạc. Địch ném bom na-pan, bom một nghìn cân Anh xuống trận địa. Ban ngày, địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp.

Trước nguy cơ con đường hành lang giữa Hồng Cúm và khu trung tâm bị cắt, Đờ Cát đưa tiểu đoàn lê-dương dù số 1 và xe tăng ra phản kích nhưng không đánh bật được chốt của trung đoàn 57. Ngày 27 tháng 3, Đờ Cát quyết định trao cho Bi-gia làm việc này, đồng thời cố loại trừ một đơn vị pháo cao xạ mới xuất hiện ở phía tây.

Bi-gia (...) quyết định sử dụng một lực lượng thật mạnh gồm những tiểu đoàn khá nhất (...) tiểu đoàn dù xung kích 8 của Tua-rê, tiểu đoàn lê-dương dù 1 của Ghi-rô, tiểu đoàn lê-dương dù 6 của Tô-mát, tiểu đoàn lê-dương bộ binh số 2 của Clê-măng-xông và đại đội xe tăng của Héc-vu-ê. Cả viên đại tá Vay-ăng (Vaillant), chỉ huy pháo binh thay Pi-rốt, thiếu tá không quân Ghê-ranh (Guérin) cũng được huy động. Toàn bộ lực lượng tương đương với năm tiều đoàn (...)

Theo kế hoạch, trận đánh sẽ bất thần mở đầu bằng một loạt pháo cấp tập thật trúng mục tiêu. 12 khẩu pháo 105, 2 khẩu pháo 155, 12 khẩu cối 120 ly sẽ làm việc này từ sáu giờ sáng ngày 28 tháng 3. Bộ binh và xe tăng sẽ khai thác tình trạng hỗn độn do pháo gây ra, nhanh chóng tiến công. 6 giờ 30, không quân sẽ oanh tạc trận địa không cho viện binh tiếp cận. Sẽ rút lui trước khi đối phương chỉnh pháo bắn vào khu vực. Bi-gia đã nhận thấy một nhược điểm của pháo binh ta là các khẩu đội đều bố trí phân tán trong hầm sâu, phải mất nhiều thời gian khi cần chuyển sang một mục tiêu mới.

Sáng ngày 28 (...) ở Pe Luông (...) trung đoàn 88 đưa đại đội 229 của tiểu đoàn 322 ra phòng ngự ban ngày (...) Sương mù còn dày đặc (...) Trung đội 8 bố trí ở tuyến tiền duyên đang sửa sang lại các hầm hố chiến đấu thì đột nhiên tiếng súng máy nổ ran. Từ trong màn sương, quân địch hiện ra rất đông, vừa la hét vừa xông tới.

Thấy trời nhiều sương mù, máy bay không thể hoạt động đúng giờ quy định, Bi-gia thay đổi kế hoạch, cho xe tăng cùng với tiểu đoàn lê-dương dù số 1 dừng lại phía sau làm lực lượng dự bị, chưa sử dụng pháo binh, đưa ba tiểu đoàn kia bí mật đột kích vào trận địa của ta.

Trung đội 8 phải đối phó với cuộc xung phong của tiểu đoàn dù 6. Các chiến sĩ mặc dầu đứng chân chưa vững tại trận địa, vẫn lập tức nổ súng đánh trả, quật ngã những tên địch đang xông tới. Hỏa lực của ta khá mạnh bắt tiểu đoàn dù 6 phải dán mình trên mặt đất. Bi-gia quyết định trở lại kế hoạch cũ. Pháo ở Mường Thanh bắn dữ dội rồi xe tăng tiến lên mở đường. Xe tăng tràn qua trận địa chia cắt trung đội. Những tên lính dù bám theo xe tăng chia thành nhiều toán nhảy xuống chiến hào. Các chiến sĩ kiên quyết không rời trận địa, chụm lại ở một ngã ba chiến hào, bố trí trung liên, tiểu liên thành một vòng tròn, mặc cho những chiếc xe tăng vượt qua, nhắm những tên lính dù nổ súng.

Cùng lúc đó, trận địa phòng không trống trải của ta ở phía sau bị xe tăng địch tác xạ pháo và liên thanh. Những người lính phòng không chỉ được trang bị trọng liên bắn máy bay, giờ phải dùng vũ khí của mình chiến đấu với xe tăng và bộ binh địch. Đại đội trưởng Quỳ và chính trị viên Phú của đơn vị phòng không hạ lệnh cho tất cả xạ thủ hạ thấp nòng súng máy cao xạ nhắm vào những chiếc xe tăng và bộ binh địch mà bắn. Việc ngăn chặn có hiệu quả. Nhưng rồi ta hết đạn. Đại đội trưởng và chính trị viên đều bị thương nặng. Xích xe tăng chà lên ụ súng. Các chiến sĩ, kể cả những người đã bị thương, giật dây lựu đạn chờ xì khói rồi mới ném thẳng vào quân địch. Cuối cùng, lựu đạn cũng hết. Các chiến sĩ dùng búa, kìm, lắc-lê, chân súng gãy v.v. lăn xả vào quân địch đánh giáp lá cà (...)

Ta bị hoàn toàn bất ngờ. Đại bộ phận tiểu đoàn 322 sau một đêm đào trận địa mệt mỏi đang nghỉ ở hậu cứ, khi có người từ trận địa chạy về báo tin, mới vận động tiến ra phản kích với sự trợ lực của súng cối 120 ly. Bộ đội ta xung phong đánh bật dần quân địch ra khỏi chiến hào trục. Thấy quân ta kéo tới đông, Bi-gia lập tức ra lệnh rút lui. Trên trận địa cao xạ, từ những ụ súng, hầm đạn, nhô lên một số chiến sĩ quần áo nhuốm đầy máu, trong tay chỉ có những dụng cụ sửa chữa pháo tạm dùng làm vũ khí. Tại trận địa của trung đội 8 ở tiền duyên, mọi người tìm được hai chiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương và Bùi Minh Đức. Phương là y tá, bị thương gãy cả hai tay. Đức là chiến sĩ, một thiếu sinh quân mười bảy tuổi vừa vào bộ đội, bị thương cả hai mắt không còn nhìn thấy gì. Trong những giờ qua, hai người đã dựa vào nhau tiếp tục chiến đấu. Phương quan sát mục tiêu, Đức bóp cò súng. Vừa lúc các đồng đội tới thì Phương thở hơi cuối cùng. Sau trận đánh, Đức được quân y hết lòng điều trị, giữ lại được một con mắt.

Trận phản kích của Bi-gia (...) là (...) chiến thắng hầu như duy nhất của địch tại Điện Biên Phủ suốt thời gian này, nhưng đã làm gần một trăm tên chết và bị thương, trong đó có năm sĩ quan (...) Đây là trận phản kích lớn cuối cùng của địch trước khi cuộc tiến công đợt 2 của ta bắt đầu.

Địch đã sử dụng bom đạn và lực lượng phản kích tới mức tối đa để ngăn cản việc xây dựng trận địa của ta. Nhưng mỗi ngày qua, các đường hào lại kéo dài thêm. Phân khu nam Hồng Cúm đã hoàn toàn bị cắt rời khỏi khu trung tâm. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ binh đã chuyển từ nơi trú quân ra ở ngay tại những đường hào mới đào xong.

Không riêng bộ binh xây dựng trận địa chiến hào để tiếp cận quân địch, một số đơn vị lựu pháo cũng rời bỏ những căn hầm rất vững chắc và “tiện nghi” của mình trên các dãy núi Tà Lèng, Pú Hồng Mèo, tới những vị trí mới ở gần mục tiêu hơn, chuẩn bị cho đợt tiến công sắp tới. Đại đội lựu pháo 804 chiếm lĩnh vị trí sát Him Lam. Hai đại đội lựu pháo 801, 802 chuyển pháo từ phía đông sang trận địa mới ở phía tây, nằm ngay sau Bản Kéo. Ở phía đông nam, đại đội lựu pháo 805 cũng cơ động từ trên núi Pú Hồng Mèo xuống gần Hồng Cúm.


(Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hồi ký
Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử in lại trong Tổng tập hồi ký, nxb. Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 2006, tr. 1009-1014. Nhan đề phần trích tạm đặt.)