“Công và tội của họ Nguyễn Gia Miêu”




Gần đây có một thiểu số đòi công nhận công lao của họ Nguyễn Gia Miêu. Ô hay, cái công mở nước của các chúa Nguyễn đâu có ai quên. Về họ Nguyễn, đúng là có những chuyện còn bị khuất lấp, nhưng đó không phải là công lao!

Hãy cùng nhau ôn lại những chuyện đặc biệt đáng chú ý trong một đoạn sử nước.

Công mở nước của các chúa Nguyễn

Phải thấy cả đầu, mới rõ đầu đuôi. Trước khi ôn việc làm của các chúa Nguyễn, phải ôn sự nghiệp mở nước của các triều đại xưa.

Chiêm Thành từng cường thịnh ngang ngửa với Đại Việt. Cuối đời Đinh, nhân nước ta có nội biến, quân Chiêm đã định ra đánh úp kinh đô Hoa Lư.(ĐDA-1) Chiêm Thành là một vấn đề to đến nỗi sau đó, triều đại nào cũng có vua phải ngự giá thân chinh phương nam: Lê Hoàn, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Anh Tông, Trần Duệ Tông, Lê Thánh Tông. Đại tướng như Lý Thường Kiệt cầm quân ra trận thì không kể. Và không phải cứ đi đánh là thắng, mà có thể thua to đến nỗi chết cả vua (Trần Duệ Tông)! Cũng không phải là chỉ có ta vào đánh Chiêm, mà Chiêm cũng ra đánh ta, trước sau xâm phạm bờ cõi Việt 43 lần!(TNT) Mới hồi thế kỷ mười bốn, Chế Bồng Nga đã “ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người”, ba lần đốt phá Thăng Long.(TTK) Năm 1470 Lê Thánh Tông mang 26 vạn quân nam chinh đại thắng, mở đất dứt khoát đến đèo Cù Mông và chia phần còn lại của Chiêm Thành thành ba “nước” rất nhỏ.(ĐDA-1). Từ đây, vương quốc kình địch một thời của ta chỉ là ba cái bóng mờ đợi tan!

Việc bành trướng tiếp theo của các chúa Nguyễn cơ bản là thực hiện kế sách “tằm ăn dâu”, “dân đi trước, làng nước theo sau”, rồi quân theo vào đàn áp kháng chiến yếu ớt, chính thức hóa việc lấn đất, làm công tác bình định, chứ hoàn toàn không phải dùng đến vũ lực to lớn như các thời trước. Năm 1611, Nguyễn Hoàng cho quân chiếm nước Hoa Anh mở vùng đất bây giờ là tỉnh Phú Yên. Đến năm 1697 thì ta lấy xong toàn bộ Chiêm Thành.

Việc mở Nam bộ hoàn thành năm 1759, và diễn tiến đại khái cũng như trên, tức nặng về phát triển kinh tế hơn hẳn chinh phục quân sự. Sở dĩ tránh được dụng binh qui mô trong đợt Nam tiến chót này, ấy là nhờ ta đã gặp ba cái may mắn thật là đặc biệt.

Cái may thứ nhất là nước Chân Lạp đang mạt vận. Hoàng tộc lủng củng hết sức nặng nề, đua nhau rước quân Việt vào giúp giành ngôi báu, kẻ được ngôi cắt đất làm quà tạ chúa Nguyễn. Ta có thể can thiệp rất dễ dàng, bởi binh lực Chân Lạp bấy giờ vô cùng suy nhược. Vì quân Xiêm cũng vào can thiệp, ta nhiều lần đụng độ với Xiêm, nhưng không trên một qui mô gần so sánh được với chiến sự Đại Việt - Chiêm Thành trước kia.

Cái may thứ hai là Thủy Chân Lạp (tức Nam bộ) là đất tương đối kém giá trị đối với Chân Lạp, do đó mới bị cắt làm quà dễ dàng. Vì một số lý do lịch sử và địa lý, tuy sau khi Phù Nam diệt vong thì chính thức thuộc về Chân Lạp nhưng đất ấy rút cuộc chưa bao giờ có nhiều người Chân Lạp ở và việc khai thác tài nguyên cũng hạn chế nên không trở thành một nguồn lợi quan trọng. Người Chân Lạp sống đông nhất ở vùng Ba Thắc (Sóc Trăng), Cần Thơ, Trà Vinh, nhưng họ chọn ở “trên đất giồng cao ráo” chứ không xuống sình lầy mênh mông mà khai khẩn cho thành ruộng vườn (SN), và dân số tổng cộng cũng không bao nhiêu: “Khi lưu dân Việt và vong thần người Hoa đến đây vào thế kỷ 17 (thì miền Tây) là vùng đất hoang, (chỉ có) một số ít người Khmer lưu trú”.(HVT) Nhờ họ “để dành” cái công khai phá vỡ hoang lại cho tổ tiên ta, mà Sơn Nam mới có “chuyện” để viết nên Lịch sử khẩn hoang miền Nam!

Cái may thứ ba trong việc mở Nam bộ tình cờ vừa được nhắc tới trong câu văn trích trên. Nhờ một số quan nhà Minh không chấp nhận triều Thanh, bỏ Trung Quốc chạy xuống phía nam lập nghiệp, mà kinh tế ở một số địa phương thuộc Thủy Chân Lạp đã sớm phát triển. Những địa phương này rồi được dâng cả cho chúa Nguyễn. Tự dưng có người ở xa chạy qua bỏ công của ra mở mang đất, xong đem hiến cho mình, chẳng tuyệt vời sao!

Tội diệt văn hóa Việt Nam của các chúa Nguyễn

Nước thì phải có văn hóa riêng mới đáng là nước. Đáng giữ khi bị người ta chực lấy, đáng giành lại khi bị lấy mất. Tự hào văn hóa trước các chúa Nguyễn đã tiềm tàng trong câu thơ Lý Thường Kiệt, hiển hiện trong Bình Ngô đại cáo, sau các chúa Nguyễn lại hiển hiện trong lời hịch kêu gọi đánh quân Thanh của vua Quang Trung, “Lời kêu gọi Hội Quốc Liên” (1926) của Nguyễn Ái Quốc. Thế mà các chúa Nguyễn đã tiến hành tiêu diệt văn hóa Việt Nam! Cụ thể, là bỏ văn hóa Việt, theo văn hóa Tàu.

Hành động “bỏ, theo” đã được tiến hành đối với ít nhất hai biểu hiện căn bản của văn hóa dân tộc. Biểu hiện thứ nhất là một nét bản địa độc đáo của kiến trúc cộng đồng Việt Nam. Biểu hiện thứ hai là trang phục Việt Nam.

Nét kiến trúc cộng đồng bị thay là cái góc mái đầu đao. Hồi năm 1933 Nguyễn Trọng Thuật trong một chuyến đi thăm phía nam có để ý: “Từ Hà Tĩnh trở ra (…) kiểu đình miếu (…) một lối như ngoài bắc. Còn từ Quảng Bình trở vào nam thì (…) bốn góc mái đều cộc, chứ không (...) cong vút lên” và nêu cách giải thích: “Từ hồi Trịnh Nguyễn giao tranh, các chúa Nguyễn bắt đầu cải tục cho khác với ngoài bắc”.(NTT) Đây là đổi văn hóa, bỏ Việt theo Tàu! Bởi “cộc” là truyền thống Tàu, “cong vút” là truyền thống Việt tộc. Chuyện này chúng tôi sẽ trình bày rõ ràng trong một bài viết riêng. Ở đây xin chỉ trích dẫn lời nhà Hán học H. Maspéro: “Nóc và mái nhà của người Trung Hoa bằng thẳng”(HM) và lời nhà khảo cổ J.Y. Claeys: “Người ta có thể nói mà không cần dè dặt (...) rằng nóc oằn, mái cong lên, ở bên Tàu là do bắt chước người Cổ Mã Lai (một đại chủng trong đó có Việt tộc, xem ĐDA-2), còn ở xứ An Nam thì đó là cái gì còn sót lại của cổ tục bổn xứ”.(JYC) Sở dĩ ở bên Tàu cũng có góc mái cong, đó là do từ đời Đường, Hoa tộc bắt đầu bắt chước nét kiến trúc đặc thù của Việt tộc, khởi sự ở Hoa Nam rồi lan dần lên Hoa Bắc, nhưng nơi đất gốc của Hoa, “cộc” vẫn tiếp tục là chủ đạo, có cong thì nói chung cong ít thôi.

Chắc do ít gặp sự chống đối mạnh mẽ của đông đảo nhân dân, việc thay góc mái đầu đao bằng góc mái cộc đã thực thi được triệt để, đến nỗi ở phía nam bây giờ nhiều người tưởng đó mới là kiến trúc truyền thống Việt Nam!

Về việc bỏ đồ Việt mặc đồ Tàu, tội bắt đầu với Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát: “Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương bắt (…) cải cách y phục (...) theo lối quần áo của người Tàu”.(ĐDA-3) Cụ thể, “buộc quan dân phải ăn mặc theo sách Tam tài đồ hội (...) là bộ bách khoa từ điển bằng tranh, xuất bản đời Minh”!(TGC) Dân tự ý bắt chước là một chuyện. Người cai trị bắt dân bắt chước là một chuyện khác, hình như độc đáo trong lịch sử thế giới. Nhà Lê chỉ Hoa hóa triều đình, Nguyễn Phúc Khoát muốn Hoa hóa đến tận dân.

Cái gì đã xui Võ Vương làm chuyện khác thường? Để ý tới Nguyễn Phúc Khoát thì họ Nguyễn mới xưng vương. Xưng cho bằng Trịnh. Xưng xong liền cố làm cho văn hóa Đàng Trong khác Đàng Ngoài. Nhưng đó mới là một động cơ. Động cơ nữa là tình cảm quý trọng đặc biệt dành cho người Tàu. Cái nhận xét của Sơn Nam: “Huê kiều (...) là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn Ánh”, nó đúng cho toàn thể Đàng Trong và từ lâu trước Nguyễn Ánh. Chúa Đàng Trong kỵ Đàng Ngoài quý “Huê” đã khiến dân Đàng Trong phải cởi váy mặc quần!

Phía nam đất nước đang trên đường hóa Tàu thì nội bộ Nguyễn lủng củng. Trịnh thừa cơ đánh vào, năm 1776 thắng Nguyễn. Lê Quý Đôn vào tham gia tiếp quản Thuận Hóa, có viết kể: “Tôi được sai làm Tham thị quân vụ (...) giúp việc (cho) trấn phủ (...) Vào đến nơi thì (thấy) quan dân (Ðàng Trong) ăn mặc lạ kiểu (...) Tôi cùng đồng liêu (quyết định) đổi bỏ lối ăn mặc dị dạng để theo chế độ quốc triều”.(LQĐ)

Nhưng bể dâu chưa dứt, rút cuộc họ Nguyễn lại được nắm quyền cai trị nước mà tiếp tục thực hiện chủ trương Hoa hóa tận dân của mình.

Công và tội của Nguyễn Ánh

Sự nghiệp của Nguyễn Ánh có thể tóm lại bằng ba chữ: chống Tây Sơn. Vậy Tây Sơn là thế nào?

Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim viết: “Anh em (Tây Sơn) đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam (…) là (…) anh hùng lập thân trong lúc biến loạn (...) Vua Chiêu Thống (…) đi sang kêu cầu bên Tàu (…) Nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi (…) Nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi hoàng đế (...) đánh một trận phá hai mươi vạn quân Tàu (...) Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy (…) Lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy”.

Hoàng Xuân Hãn thì nói: “Quang Trung (...) Cái công đánh bạt Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, cái công ấy rất to. Bởi vì nếu Tôn Sĩ Nghị không thua, để cho nhà Lê tiếp tục thì tự nhiên nhà Lê sẽ ở dưới quyền vua Thanh. Cái đó chắc chắn (...) Công ấy rất to”.(HXH)

Tây Sơn là thế. Rõ ràng không thể nói đánh Tây Sơn là đánh để tiêu diệt ngụy quyền. Nguyễn Ánh nhằm mục tiêu thống nhất đất nước chăng? Căn cứ vào một việc làm sắp nêu sau đây thì Nguyễn Ánh không kể gì đến nước. Cái chí đặc biệt bền bỉ của một người nó chỉ là quyết tâm tranh giành quyền lực cho dòng họ mình mà thôi. Nguyễn Ánh có công rất to đối với họ Nguyễn Gia Miêu. Nhưng đất nước thống nhất là kết quả tự nhiên của tranh giành kết thúc chứ không phải là cái công mà Nguyễn Ánh cố lập.

Đã không vì nước, Nguyễn Ánh lại còn phạm tội nặng với nước. Hai tội “cõng rắn Xiêm” và “cõng rắn Pháp” ai nấy đều biết. Nhưng còn mấy tội nữa mọi người cũng cần biết.

Tội thứ ba là ủng hộ ngoại xâm. Đại Nam thực lục chép: “(Nguyễn Ánh) nghe quân Thanh đánh Tây Sơn, sai Phạm Văn Trọng đem thư đi Quảng Đông và lấy năm mươi vạn cân gạo giúp. Ghe bị chìm”. Giúp Thanh đánh Tây Sơn tức là mong Thanh thắng, là chấp nhận Bắc thuộc! Nguyễn Ánh chẳng thà để nước mất hơn là để Tây Sơn tồn tại. (Cái truyền thống sùng bái Tàu của các chúa Nguyễn hẳn có làm cho Bắc thuộc dễ chấp nhận.)

Tội thứ tư cũng là ủng hộ ngoại xâm. Đây kẻ xâm lược là Vạn Tượng. (Chi tiết xin sẽ kể trong phần sau.)

Tội thứ năm là cắt đất biếu ngoại bang. Việt Nam sử lược ghi: “(Năm 1817) tàu binh (...) của nước Pháp vào cửa Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng (...) nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước (…) ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Hứa rồi không làm, nhưng mà đã hứa.

Công và tội của vua Gia Long (1802-1820)

Sau khi trở thành vua, Nguyễn Ánh lại phạm tội cắt đất biếu ngoại bang. Lần này diện tích đất bị cắt lớn hơn rất nhiều và quyết định đã được thực thi, làm thay đổi hẳn hình thể nước ta về phía bắc.

Đại Nam nhất thống chí chép: “Trấn Ninh (…) Bản triều đầu đời Gia Long (…) nước Vạn Tượng có công đánh giặc, do đó đem đất này cho Vạn Tượng (…) Trấn Biên (…) Bản triều đầu đời Gia Long (…) đem đất này cho Vạn Tượng (…) Trấn Định (…) Bản triều đầu đời Gia Long (…) đem đất này cho Vạn Tượng (…) Trấn Tĩnh (…) Bản triều đầu đời Gia Long (…) đem đất này cho Vạn Tượng”. Đem so bản đồ phía bắc nước ta đời Lê (ĐDA-4) với bản đồ nước Lào bây giờ, thấy bốn “Trấn” này đại khái là tỉnh Xiêng Khoảng, một phần tỉnh Hủa Phăn, một phần tỉnh Bô Ri Khăm Xay (vốn thuộc vào tỉnh Khăm Muộn), với tổng diện tích khoảng gấp ba lần Thanh Hóa!

Tiền triều khó nhọc lập vũ công mở nước ở phía tây, Lê Thánh Tông phải thân chinh, để “bản triều” đem tạ đi hết cả! Vạn Tượng đánh “giặc” nào? Dĩ nhiên Tây Sơn. Không phải vào sâu đánh, chỉ là thừa cơ nước ta có nội chiến mà toan chiếm các vùng xa. Công “Tượng” đối với Gia Long so với công chúa Nguyễn đối với vua Chân Lạp trước kia không đáng kể, nhưng hẳn vì thiển cận không biết quý đất nên Gia Long cũng noi gương Chân Lạp mà cho quách cho đỡ phải lo giữ!

Hẳn do nể “bản triều”, về các tội của Nguyễn Ánh, Trần Trọng Kim chép rất thiếu, mà về việc trị nước của Gia Long thì lại nhận định rất kém chính xác. Cái câu “Vua Thể tổ (...) sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy (...) tài trí của ngài (...) cao thật” không đúng sự thực.

“Mọi việc” là: “Sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi (...) Ở Bắc thành (...) đê điều (...) chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì (...) sửa lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân (…) lưu ý về việc học hành thi cử trong nước (...) lo cả đến địa dư và quốc sử (…) sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại (!)… Ô hay, ngoài cái việc chót có gốc ở hoàn cảnh lên ngôi không vinh quang của Gia Long, đây toàn là những việc mà vào thời bình vua tốt điển hình nào cũng làm và làm được, không đòi hỏi phải có “tài trí cao thật” gì cả! Nói riêng về đê, đó là một đại công trình của dân tộc đã được bắt đầu từ trước Bắc thuộc (TQV), là công trình “lớn nhất, phi thường nhất phản ảnh tâm thức Việt Nam”(PN), cụ thể là “một mạng lưới đê sông, đê biển dài hơn 2.000km, có nơi cao đến 14m, 18m”(NKV). Gia Long chỉ thêm và sửa một cách bình thường. Việc đắp đê đáng kể nhất dưới triều Nguyễn là một đoạn đê biển ở Quảng Yên do Nguyễn Công Trứ xây, nhưng đó là trong đời Minh Mệnh. Một năm trước khi mất, Gia Long có quyết định cho khởi công đào kênh Vĩnh Tế, nhưng thế cũng chỉ là sáng suốt bình thường.

“Nước ta (...) cường đại (...) chưa bao giờ từng thấy”: về diện tích ta có thể so với chính ta trong quá khứ mà bảo lúc bấy giờ là “đại” nhất, nhưng về độ “cường” thì cần phải so với các nước khác cùng thời. Việt Nam đầu thế kỷ 19 bất quá áp đảo được Chân Lạp mạt vận và có lẽ mạnh hơn Xiêm La chút đỉnh. Đo sức mạnh thời Gia Long, phải lấy các nước châu Âu làm chuẩn. Nguyễn Ánh “nhờ sức Pháp quân mà đánh được quân Tây Sơn” (ĐDA-5), hơn ai hết thấm thía cái vũ lực đáng sợ của Âu, thế mà khi làm vua không hề biết đặt vấn đề canh tân đất nước để sức quân đạt chuẩn mới, không thấy được rằng kẻ có sức mạnh để đưa mình lên ngôi một ngày kia sẽ dùng chính cái sức mạnh ấy để cướp nước mình, “tài trí cao thật” là như vậy sao!

Và “tài trí cao thật” mà đối ngoại như thế này: “(Năm 1803) nước Hồng Mao (Anh) sai sứ (...) sang (...) xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở (...) Quảng Nam. Vua Thế Tổ (...) không cho (...) Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngài vẫn một niềm từ chối không chịu”. Không biết lấy Tây kiềm chế Tây, cứ khăng khăng “biệt nhỡn” với Pháp, ông vua “rất khôn ngoan” của Trần Trọng Kim đó!

Còn ít nhất một việc nữa Gia Long làm cũng đáng chú ý: “Năm 1811 sai (...) soạn ra sách luật (...) Đến năm 1815 (...) phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi”. Luật Hồng Đức có đặc điểm giữ lại một số tập tục cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Gia Long đã chọn bỏ đi để theo luật Tàu!

Về việc họ Nguyễn Gia Miêu để Pháp cướp nước, bây giờ ta hay trách Tự Đức. Thực ra, với cái định hướng lệch nặng của “tiên đế”, con cháu về sau khó tránh khỏi lạc vào ngõ cụt. Thống nhất chỉ để đợi ngày mất là định mệnh của đất nước Việt Nam ta một thời.

Công và tội của vua Minh Mệnh (1820-1841)

Về công, năm 1833 Minh Mệnh thành công trong việc chống Xiêm La xâm phạm vùng biên giới tây nam. Sau khi đánh giặc lui, Minh Mệnh cho quân tiến luôn qua Chân Lạp, năm 1835 sáp nhập một phần đất, đặt Trấn Tây thành, nhưng đến năm 1841 ta phải bỏ. Việc mở nước không thành, nhưng Việt Nam tạo được ảnh hưởng lớn ở Chân Lạp, tuy về sau phải chia với Xiêm.

Minh Mệnh cũng ghi được công cho đào xong kênh Vĩnh Tế (1824) và cho khẩn hoang vài nơi đất bãi, đắp thêm đê biển ngoài Bắc (1828-1832).

Về tội, việc chống Xiêm lấn chiếm tây bắc Trung bộ không thành công. Chuyện là một phần của vùng đất mênh mông mà Gia Long đem cho Vạn Tượng, do Vạn Tượng bị Xiêm uy hiếp, năm 1823 xin lại nội thuộc Việt Nam, nhưng đến năm 1831 Xiêm bắt đầu đánh chiếm. Chiến sự kéo dài suốt mười mấy năm, rút cuộc quân ta phải rút lui. Dân Việt rời Trấn Ninh vào khoảng năm 1850.(LSN) Lãnh thổ quốc gia bị đem cho, đời sau may mắn có lại được, mà để mất. Đây là trách nhiệm của Minh Mệnh và Thiệu Trị.

Minh Mệnh tiếp tục sự nghiệp tiêu diệt văn hóa dân tộc bắt đầu bởi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Năm 1828, xuống chiếu bắt dân Đàng Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc cho giống dân Đàng Trong. Năm 1837, lại xuống chiếu nữa: “Trẫm đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài mười năm, mà ở Đàng Ngoài (...) chưa chịu đổi thay. Từ Quảng Bình trở vào nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh, mũ mãng, áo quần (...) chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc cứ ăn mặc theo lối cũ (...) đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới thì mặc váy (…) Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát các tỉnh (…) ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi (…) Nếu năm tới còn có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng”.(ĐĐN) Cái kẻ đáng “trị tội thật nặng” chính là kẻ làm vua nước Việt Nam mà lại đi cưỡng bách dân tộc Việt Nam đồng hóa với dân tộc khác!!!

“Phép vua thua lệ làng”, bất kể hai cái “chiếu” của Minh Mệnh, thứ trang phục “vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có, bên Tàu thì không” nó vẫn cứ tiếp tục còn nơi đất Bắc để hàng thế kỷ sau các liền chị ở Bắc Ninh mặc đi hát quan họ cho Hoàng Cầm trầm trồ tấm tắc “cái váy lụa mềm óng buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, nhìn đằng trước tưởng là các cô đang đi lướt trên sóng lượn rập rờn”.(HC) Ngay ở Đàng Trong, cũng hàng thế kỷ sau, tuy trang phục dân gian khác với ngoài Bắc nhưng rõ ràng không phải là lối Tàu. Tức dân chúng Đàng Trong đã lặng lẽ chống lại lệnh đồng hóa của triều đình Huế mà sáng kiến ra trang phục Việt Nam mới. Văn hóa ăn mặc Đàng Trong có bản sắc riêng là nhờ nhân dân và bất chấp ý muốn của vua. Ngoài nguyên nhân nội tại là sức mạnh của văn hóa dân tộc, sở dĩ chủ trương Hoa hóa trang phục Việt Nam của họ Nguyễn Gia Miêu không thành công, ấy cũng có do giặc Pháp qua khiến việc nước rối ren, rồi vua hóa bù nhìn, không còn làm được bất cứ việc gì nữa.

Có lẽ nhân đây cũng nên nhắc luôn cái ý kiến lạ lùng rằng triều Nguyễn có công với văn học chữ nôm. Văn nôm đã bắt đầu vào thời cổ điển từ lâu trước Gia Long, với Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc v.v. Nó là tiếng Việt tới lúc nở hoa. Hoa tiếp tục nở xuyên mọi tình hình đất nước, bất chấp trước không được Trịnh ủng hộ, sau cũng không được Nguyễn ủng hộ. Vua chúa có thể thưởng thức, nhưng vì hoàn toàn không cổ vũ, cho nên không thể nhận công. Duy nhất có công là nhân dân Việt Nam, vì đã giữ trí thức Việt tuy bị triều đình ép Hoa hóa nhưng không thoát ly mà lại thấm nhuần văn hóa dân tộc, để rút cuộc làm được cái việc biểu dương đích đáng tiếng mẹ.

Công và tội của vua Tự Đức (1847-1883)

Tự Đức không có công gì cả. Tội thì…

Về nội trị, khoảng giữa thế kỷ 19 dân đói triền miên, đương thời có lưu hành bài vè: “(…) / Cơm thì chẳng có / Rau cháo cũng không / Đất trắng ngoài đồng / Nhà giàu niêm kín cổng / Còn một bộ xương sống / Vơ vất đi ăn mày / Ngồi xó chợ lùm cây / Quạ kêu vang bốn phía / Xác đầy nghĩa địa / Thây thối bên cầu / Trời ảm đạm u sầu / Cảnh hoang tàn đói rét / Dân nghèo cùng kiệt / Kẻ lưu lạc tha phương / Người chết chợ chết đường… / Là cái thời Tự Đức”. Rủi vì gặp tai trời (châu chấu phá lúa) là có, nhưng dân khổ chắc chắn từ lâu, Cao Bá Quát thường xuyên “đạo phùng ngã phu” (giữa đường gặp người đói) nên mới viết bài thơ “Lập xuân hậu nhất nhật tân tình” mà chúng tôi tạm dịch: “Phá rét xuân hồng lại đến đây / Muôn hoa đua nở đón xuân say / Bao giờ người được như hoa nhỉ? / Non sông mưa gió đổi thay đời”. Cái câu chót! Hẳn văn nhân đang ở một nơi an toàn, chuẩn bị khởi nghĩa. Cảm khái trước tấm lòng thương dân đến sẵn sàng liều mình, chúng tôi lại dịch hơi thoát vẫn bài thơ ấy: “Hôm qua trời đất giao mùa / Sáng nay khắp nẻo hoa đùa gió xuân / Thua hoa chẳng để phận dân / Non sông quyết đổi, bão giông cũng đành!”.

Về đối ngoại, Tự Đức bác bỏ canh tân. Thực ra, có lẽ canh tân cũng trễ rồi. Nước đã đến bụng, còn nhảy làm sao! Như đã bàn, đây là kết cục tự nhiên của một hướng nghĩ việc nước sai lầm bắt đầu từ Gia Long. Nhắm mắt theo Tàu! Bên Tàu: “Bế quan chủ nghĩa đã được thực hành đáo để (...) Triều đình (...) chỉ biết câu thủ nền nếp cũ, không dám có chút biến thông”(ĐDA-6), bên ta bèn cũng thế. Nhà Thanh đưa Trung Quốc vào dưới gót liệt cường. Nhà Nguyễn khiến Việt Nam phải làm con Pháp.

Tự Đức là vua đức độ nhưng bất tài. Trong hoàn cảnh bình thường, thì không công không tội. Do lúc đó cả dân và nước đều rất cần người cai trị hành động hiệu quả, Tự Đức phải xem là có tội.

Vua không công có tội vẫn xây lăng “muôn năm” cho mình. “Vạn Niên là Vạn Niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân”! Sau loạn Chày Vôi, Tự Đức có biết “khiêm”. Khiêm Cung còn sờ sờ đó, làm biểu tượng của cái đức vô ích.

Tội của hai “tượng gỗ” Khải Định, Bảo Đại

Về Khải Định, Phan Chu Trinh có mấy vần nổi tiếng: “Ai về địa phủ hỏi Gia Long / Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông? / (...) / Năm ngoái qua Tây ỉa vãi cùng! / Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ / Vua thời còn đó, nước thời không!”. Đó là tượng, đâu phải vua. Một cái tượng biết đi đã qua Pháp “làm nhục quốc thể” như thể dân tộc Việt Nam mất nước đang chưa đủ nhục nhã! Lăng Khải Định, mỉa mai nào hơn.

Về Bảo Đại: Tượng này trong bao nhiêu năm đã ăn chơi khét tiếng trong lúc nước nhục dân khổ, rồi trở lại làm quốc trưởng cái ngụy quyền “từ thực dân mà ra” cho giặc lợi dụng làm cuộc trường kỳ kháng chiến bảo vệ độc lập đã muôn vàn khó khăn càng thêm khó khăn. Cái việc Mỹ chia hai đất nước sau khi Pháp thua khiến không biết bao nhiêu máu dân nữa sẽ phải đổ, việc ấy Bảo Đại tuy không can dự nhưng cũng có phần trách nhiệm vì nhờ có “Quốc gia Việt Nam” mà mới có “Việt Nam Cộng hòa”. Thế mà nghe nói nay đang có những người ủng hộ việc xây lăng cho “hoàng đế” chót của triều Nguyễn! Đã có lăng Đức Vô Ích, lăng Mỉa Mai, rồi sẽ có lăng Lật Sử nữa chăng?

Tóm tắt

Khi làm chúa, họ Nguyễn Gia Miêu lập được công mở nước. Công này to, nhưng không khó như công mở nước của các triều đại trước. Các chúa Nguyễn cũng có công phát triển kinh tế Đàng Trong, nhờ hậu thuẫn của Hoa kiều. Khi làm vua, có công chống giặc Xiêm, mở rộng ảnh hưởng ở Chân Lạp, đào kênh, xây thêm đê biển.

Tội gồm năm loại.

Loại thứ nhất là tiêu diệt văn hóa dân tộc, phạm từ khi còn làm chúa, tiếp tục phạm sau khi làm vua.

Loại thứ hai là “cõng rắn cắn gà nhà” và ủng hộ xâm lược. Nguyễn Ánh trước “cõng” quân Xiêm, sau “cõng” quân Pháp, và ủng hộ quân Tàu xâm phạm từ phía bắc, quân Vạn Tượng từ phía tây.

Loại thứ ba là cắt đất biếu ngoại bang và để mất đất. Nguyễn Ánh biếu Đà Nẵng và Côn Đảo cho Pháp, Gia Long biếu Trấn Ninh cho Vạn Tượng. Một phần của Trấn Ninh về sau lại thuộc nước ta rồi bị Xiêm đánh chiếm mà Minh Mệnh và Thiệu Trị không giữ được.

Loại thứ tư là chủ trương việc nước sai lầm làm mất nước. Tội này là trách nhiệm của Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.

Loại thứ năm là tội mà họ Nguyễn phạm sau khi đã trở thành bù nhìn của giặc Pháp. Khải Định làm xấu mặt nước. Bảo Đại làm đánh Pháp thêm khó và gián tiếp giúp Mỹ chia hai đất nước.


*

Về sự kiện họ Nguyễn Gia Miêu sùng bái Tàu có một biểu tượng vừa vặn. Nguyễn Từ Chi nhận xét: “Rồng Nguyễn (...) na ná rồng Thanh. Điều này không có gì lạ. Vì (...) nhà Nguyễn (...) hướng hơn bao giờ hết về (...) phương Bắc”.(NTC) Con rồng Việt Nam đã mang dáng hình hoàn toàn độc đáo mà bay lên trời Thăng Long, để tám thế kỷ sau, khi đáp xuống Huế, là gần như một con rồng Tàu! Rồng Tàu thật Tây còn kéo qua đè cưỡi, trách sao rồng Tàu nhái bị nhục nhã hơn nữa.

Chúng tôi xin nhắc lại: giữa công và tội của họ Nguyễn Gia Miêu, cái phần đang cần được “công nhận” cho đầy đủ là phần tội chứ không phải phần công.



Thu Tứ
Viết tháng 4-2017
Sửa mới nhất tháng 3-2024



















_________
CQT: Chu Quang Trứ,
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, nxb. Mỹ Thuật (2002); JYC: J.Y. Claeys, Nhập môn nghiên cứu An Nam và Chăm Pa (1934), dẫn theo Bình Nguyên Lộc trong Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1971); ĐDA-1: Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam (1957), ĐDA-2: Lịch sử cổ đại Việt Nam (1957), ĐDA-3: Việt Nam văn hóa sử cương (1938), ĐDA-4: Đất nước Việt Nam qua các đời (1964), ĐDA-5: Hán Việt từ điển (1932), mục từ “Nguyễn Ánh”, ĐDA-6: Trung Hoa sử cương (1942); ĐĐN: Đào Đức Nhuận, “Bàn về một bài ca dao thời Minh Mạng”, trang e-cadao.com; HVT: Hà Văn Thùy, “Từ sự tiêu diệt của Phù Nam nhìn lại đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí Xưa Nay, số 246, tháng 10-2005; HC: Hoàng Cầm tác phẩm - Văn xuôi, nxb. Hội Nhà Văn (2004); HXH: Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp (Thụy Khuê phỏng vấn), nxb. Văn Nghệ (Mỹ, 2002); LQĐ: Lê Quý Đôn, lời tựa Phủ biên tạp lục, nxb. Khoa Học Xã Hội (1977); LSN: “Chuyện cắt đất của vua Gia Long”, trang lichsuvn.net; HM: H. Maspéro, trong Về vài món đồ đời Hán (1927), dẫn theo Bình Nguyên Lộc (sđd.); NKV: Nguyễn Khắc Viện, Kể chuyện đất nước, nxb. Ngoại Văn (1988); NTT: Nguyễn Trọng Thuật, “Nam du đến Ngũ Hành Sơn”, Nam Phong số tháng 5 và 6-1933, in lại trong Du ký Việt Nam, nxb. Trẻ (2007); NTC: Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, nxb. Văn Hóa Dân Tộc (2003); PN: Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa - Thông Tin (1998); SN: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, nxb. Đông Phố (SG, 1973); TQV: Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, nxb. Văn Hóa Dân Tộc (2000); TGC: Trương Giáng Chi, “Lễ phục và quốc phục”, tạp chí Xưa Nay, số 256, tháng 3-2006; TNT: Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. TPHCM (2001); TTK: Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (1919).