“Thơ dân gian” (1)




Thơ xưa kia có thể chia làm thơ dân gian và thơ “nho gian”.

Thơ dân gian điển hình do người bình dân làm và luôn khuyết danh. Thơ nho gian đều do nho sĩ làm và thường biết tên tác giả.

Thơ dân gian phổ biến rộng khắp, từ người nông dân đến nho sĩ, ai ai cũng biết. Thơ nho gian đa số chỉ phổ biến trong giới nho sĩ.

Thơ dân gian gồm ca dao và một số lời dân ca. Nội dung cơ bản là đời sống nông thôn. Hình thức thì gần như tất cả đều là lục bát.(1) Phong cách rất đa dạng, khi thẳng, rõ, khi quanh co, xa xôi bóng gió, lửng lơ, lấp lửng, ỡm ờ, hư hư thực thực...

Dân gian hay nho gian, thơ hay luôn hiếm. Hoài Thanh bảo: “Văn chương là vật quý, có đâu được nhiều thế!”.(2)

Khi không thành công, thơ dân gian thường quá giản dị (so với đặc điểm sáo rỗng của thơ nho gian không thành công).

Khi thành công, thơ dân gian đẹp mộc mạc mà tinh tế.

Đầu thế kỷ 21 Quê coi như thôi rồi. May mắn, khá nhiều “lời quê” đã được kịp thời chép xuống. Sau đây là một số lời đáng nhớ mà chúng tôi nhặt ra từ Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan v.v. Dịp khác, sẽ xin nhặt nữa.


“Hôm qua tát nước...”

“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng
Khâu rồi, anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng, anh lại giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Ðôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau!”
.

Khi anh “bỏ quên” cho em “được”, khi em cố ý “cởi (…) cho nhau” rồi “về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”, cái áo khi không mặc mới thật là hữu ích.

Người nông dân Việt Nam tình tứ nhất thế giới!


“Vừa trắng vừa tròn”

Bài 1:

“Cổ tay em trắng lại tròn
Để cho ai gối, đã mòn một bên
Gối chăn, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em!”
.

Bài 2:

“Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu, như thể hoa sen!”
.

Bài 3:

“Cổ tay em vừa trắng vừa tròn
Răng đen rưng rức, chồng con kém người
Khốn nạn thay, nhạn ở với ruồi!
Tiên ở với cú, người cười với ma!”
.

Nghe “vừa trắng vừa tròn”, nghĩ ngay đến “thân em” (thơ Hồ Xuân Hương)!

Nhờ không phải “thân” mà “cổ tay em” không bị ai “nặn”, chỉ bị “gối” thôi, gối nhiều đến nỗi “mòn”...

Cổ tay như thể “miếng trầu”, vì cùng “là đầu câu chuyện”, khen một cái đã, rồi hẵng tán tỉnh hay than thở cho...

Cổ tay có khi thường được nhắc đến hơn cổ thật đấy nhỉ.


“Trong đục bên nào…”

“Nàng ơi, anh quyết với mình
Công anh dan díu chẳng thành thời thôi
Sông kia bên lở, bên bồi
Bên lở thì đục, bên bồi thì trong
Sông kia nước chảy đôi dòng
Biết rằng bên đục, bên trong bên nào”
.

Hình như chỉ “anh quyết với mình” chứ em thì chưa quyết, thậm chí có lẽ đang dao động xa anh nên anh mới buồn bã “chẳng thành thời thôi”, mới xa xôi đục lở trong bồi...


“Mười thương, mười thương…”

Bài 1:

“Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương má phấn lại càng thêm xinh
Chín thương em ngủ một mình
Mười thương con mắt có tình với ai”
.

Bài 2:

“Một thương tóc xõa ngang vai
Hai thương đi đứng vẻ người đoan trang
Ba thương ăn nói có duyên
Bốn thương mơ mộng mắt huyền thêm xinh
Năm thương dáng điệu thanh thanh
Sáu thương nón Huế nửa vành nên thơ
Bảy thương những phút mong chờ
Tám thương thơ thẩn bên bờ Hương Giang
Chín thương bến Ngự sang ngang
Mười thương tà áo nhẹ nhàng gió bay”
.

Đây là hai lời khác nhau của cùng một bài dân ca Huế.

Trong lời thứ nhất “em” mang dáng một phụ nữ Bắc bộ xưa; trong lời thứ hai, phổ biến hơn nhiều, “em” rõ là một cô gái sông Hương.

Có phải khi bài dân ca này ra đời, phụ nữ Việt ở Huế còn ăn mặc, trang điểm giống như nơi đất gốc, nhưng rồi họ dần dần thay đổi, rút cuộc trở nên khác hẳn, làm nảy sinh nhu cầu đặt lời mới cho bài hát cũ?...


“Ai ơi chơi lấy...”

“Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa, người ta có thì
Chơi xuân, kẻo hết xuân đi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau”
.

Nguyễn Công Trứ có lần hát nói cái tứ này:

“Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác (…)
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù!”
.


“Trèo lên cây bưởi…”

“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng, biết thuở nào ra!”
.

Theo Nguyễn Xuân Kính, “ở đồng bằng Bắc bộ (...) chưa tìm thấy hoa tầm xuân màu xanh (...) nếu (...) có (...) cũng không (...) phổ biến (...) hoa tầm xuân (thường) màu đào hay trắng nhạt”. Ông bảo bài ca dao rất nổi tiếng này “có nhiều khả năng ra đời (...) ở đồng bằng Bắc bộ”, rồi bàn: “đây màu hoa xanh biếc hàm nghĩa là nó không có trong thực tế, là ngang trái, là trớ trêu giống như cảnh ngộ chàng trai”.(3) Cái ý kể cũng hay.

Sực nhớ một bài ca dao cũng rất nổi tiếng khác: “Trên trời có đám mây xanh, ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng...”. Mây ba màu “không có trong thực tế”, vậy “Ước gì anh lấy được nàng / Để anh mua gạch Bát Tràng về xây” cũng là ước hão huyền chăng?

Tưởng trong cả hai trường hợp, hoặc là thế, hoặc những màu sắc lạ lùng kia thực ra không có ý nghĩa gì đặc biệt cả mà chẳng qua thuộc vào một cái lối mở đầu thơ bằng vài câu bâng quơ, ngộ nghĩnh...

Đã tạm nghĩ vậy, nhưng rồi một hôm đọc thấy ở Thanh Hóa có một thứ hoa cũng tên là tầm xuân và hoa này thì xanh biếc.(4) Hay là, rút cuộc, ai đó xưa kia đã “trèo lên (một) cây bưởi” ở Thanh Hóa chứ không phải ở đồng bằng Bắc bộ?


“Anh đi, anh đi…”

Bài 1:

“Anh đi, em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi, anh liệu chen đua với đời”
.

Bài 2:

“Anh đi đàng ấy xa xa
Ðể em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng”
.

Anh đi, ở nhà ban ngày em gánh, ban đêm em ôm. Gánh, ngay cả vác, mẹ già con thơ, thế mà vẫn nhẹ hơn chỉ nằm ôm cái bóng của mình!


“Lúc đêm khuya”

Nguyên văn lời bài hát xẩm:

“Lúc đêm khuya, trăng lạnh, sương mờ
Canh tàn, rượu tỉnh, lúc bấy giờ em mới nghĩ thương thân!
Em tiếc thay em trong giá, trắng ngần
Nỡ gieo thân mình vào chốn bụi trần mà chơi
Chốn hang sâu lẩn khuất hương trời
Non xanh nước biếc dễ mấy ai người biết cho
Con chim khôn đã mắc phải dò
Thì còn vui chi nữa, cái kiếp giang hồ, hỡi các chị em ơi!
Tính đốt ngón tay đã quá nửa xuân rồi
Đầu xanh mấy lúc cũng da mồi tóc sương
Kiếp hồng nhan, càng nghĩ đến càng thương
Tài tình chi cho lắm để vấn vương cái nợ ở đời
Trông non sông mà lại thẹn với Trời
Khi vui, em vui gượng, khi cười, em cười suông
Ruột con tằm, trăm mối vẫn tơ vương
Bên trời góc biển, em biết gửi can trường vào đâu...”
.

Sau khi tạm bớt chữ, sửa cho thành lục bát chỉnh thể:

“Đêm khuya, trăng lạnh, sương mờ
Canh tàn, rượu tỉnh, bấy giờ thương thân!
Tiếc thay trong giá, trắng ngần
Nỡ gieo vào chốn bụi trần mà chơi
Hang sâu lẩn khuất hương trời
Non xanh nước biếc ai người biết cho
Chim khôn đã mắc phải dò
Còn vui chi nữa, giang hồ, em ơi!
Thoắt đây quá nửa xuân rồi
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương
Hồng nhan, càng nghĩ càng thương
Tài tình chi lắm vấn vương nợ đời
Trông non sông thẹn với Trời
Khi vui, vui gượng, khi cười, cười suông
Ruột tằm, trăm mối tơ vương
Bên trời góc biển, can trường gửi ai...”
.

Còn đây là cái đoạn Truyện Kiều nội dung tương tự:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì
Ðòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Ðòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Thờ ơ gió trúc mưa mai
Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân”
.

Ai đó làm thơ hát xẩm chắc đã sống sau Nguyễn Du, đã dựa vào Kiều mà làm. Tác giả thơ dân gian đôi khi là nhà nho. Hình như đây là một ví dụ.


“Chiếu xanh trải xuống...”

“Chiếu xanh trải xuống mà ngồi
Em ơi! xích lại cùng tôi kẻo buồn
Chiều chiều bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu
Cánh buồm, gió thổi hiu hiu
Nước mắt ra chầm chậm, múi lưng điều không khô
Thảm với sầu, không biết chừng mô”
.

Thử diễn ca cái tình huống này bằng lời khác:

Sóng gợn gợn, gió hiu hiu
Lệ tuôn chậm chậm, sông chiều buồn hung
Em ơi! xích lại đây cùng
Múi lưng điều ướt thôi dùng sẽ khô.


“Có có không không…”

Bản 1:

“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Tuồng như đáy nguyệt lòng sông
Nào ai mà biết có không là gì”
.

Bản 2:

“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có không không mơ màng”
.

Theo Trần Quốc Vượng, bài ca dao này gốc ở bài kệ “Có không” mà Từ Đạo Hạnh làm để diễn giải một tứ cú trong kinh Kim Cương.(5)

Bài kệ do sư nổi tiếng làm, còn bài ca dao hẳn do một ẩn sĩ làm. Sư kệ rồi sĩ ca, chứ chắc chắn chẳng có người nông dân nào dính líu vào cái “tứ cú” lục bát này.


“Rồi sẽ, biết đâu...”

“Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết
Hoa để gần, sẽ hết mùi hương...
Xa nhau, mong ước, mơ màng
Gần nhau, rồi sẽ phụ phàng, biết đâu...”
.

Lo xa, e ngại, rỉ rén thành lời thật dễ thương. Làm sao đây? Chẳng lẽ vì lo mà giữ mãi xa? Đành phải cho gần, nhưng không cho no mắt, no mũi!

Đọc ca dao, rồi cũng thử làm ca dao:

Bay hoài hương ngát thôi thơm
Ngọc phơi lồ lộ chóng nhờn mắt ai
Tình yêu, muốn giữ lâu dài
Đậy hương che ngọc, nhớ bài đầu tiên!


“Mười say”

“Em là con gái nhu mì
Làng trên xóm dưới ai bì được nao
Liếc mắt trông lên thấy cặp má đào
Môi hồng mắt phượng ai trông vào chẳng say
Say em một bộ lông mày
Ngón tay tháp bút, tóc mây xanh rờn
Say em say cả bàn chân
Gót hồng da trắng mười phân vẹn mười
Say em câu nói tiếng cười
Say em nết đứng, say nơi nết nằm
Khen ai sinh cúc sinh trầm
Mà sinh nết đứng nết nằm cũng xinh”
.

Má, môi, mắt, lông mày, ngón tay, tóc, bàn chân, tiếng cười, nết đứng, nết nằm. Cộng lại: đúng mười!

Đã có quan họ Mười Nhớ, dân ca Huế Mười Thương, không biết cái bài thơ Mười Say này đã có địa phương nào hát lên chưa nhỉ?


“Hỏi tí đêm khuya”

“Đêm khuya, thiếp mới hỏi chàng:
Cau xanh ăn với trầu vàng, xứng chăng?
- Trầu vàng nhai lẫn cau xanh
Duyên em sánh với tình anh, tuyệt vời!”
.

Thường chỉ khi đang theo đuổi nhau, hoặc xa nhau, hoặc hiểu lầm nhau, hoặc gặp hoàn cảnh éo le, hoặc cần nhắc nhở nhau tình nghĩa, thì mới “ca”.

Đây đang nằm với nhau đêm khuya, mà lại cất tiếng! “Trầu” đã hỏi thì “cau” xin thưa: trên cả tuyệt vời!


“Anh huê, em bướm!”

“Chơi cho trứng chọi đá tan
Trăm hồ nghìn hải phá tàn rừng xanh
Người như huê nở trên cành
Em như con bướm lượn vành trên hoa
Bây giờ anh lấy người ta
Như dao cắt ruột em ra làm mười!”
.

Lời yêu thì vẫn vô cùng. Chọi cho vỡ đá, phá cho tan rừng, cắt ruột làm mười, mãnh liệt đấy nhưng chưa nên nổi lạ.

Cái thực đáng nên rất lạ trong lời bài dân ca quan họ này là cái chỗ anh huê, em bướm!

Đâu phụ nữ chỉ e ấp làm hoa thôi mặc đâu nhé, ở Kinh Bắc xưa các liền chị mà thấy có liền anh (xinh) “nở trên cành” là cứ thoải mái đua nhau “lượn vành” đấy!


“Con thỏ đầu truông”

“Có thương thì thương cho chắc
Còn trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ đầu truông
Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng”
.

Bài ca dao này Huy Cận thâm cảm: “Không gian thì đã rõ ràng. Còn thời gian? Ấy là khi vui, khi buồn (...) Thời gian mà lại minh họa bằng không gian; thời gian chập chùng thấp thoáng nơi bóng với trăng, và thấp thoáng chập chùng trong tâm tưởng nữa. Câu thơ trở nên vô cùng khoáng đạt. Con thỏ đầu truông tưởng như nhảy múa thênh thang trong cả khoảng trời mênh mông tràn ngập ánh trăng. Và vì vậy mà nỗi buồn của người tình trong câu ca dao mới thật là vời vợi, vừa trong vừa lạnh, đau buốt vô cùng”.(6)


“Vuông vắn em”

“Trên đầu em đội khăn vuông
Trông xuống dưới ngực cau buồng còn non
Cổ tay em vừa trắng lại vừa tròn
Mặt mũi em vuông vắn, việc chồng con thế nào?”
.

Người hay là quạ, mà trông “em” hau háu như trông gà con thế!

Cổ tay trắng tròn hay nhắc đã “mòn”, nhưng “mặt mũi (…) vuông vắn” thì còn “vuông” lắm vì hiếm khi xuất hiện trong thơ.



Thu Tứ
Viết năm 2013
Sửa mới nhất 2-2023
















________
(1), (3) Nguyễn Xuân Kính,
Thi pháp ca dao, nxb. Khoa Học Xã Hội, 1992.
(2) Nhiều tác giả,
99 góc nhìn văn hiến Việt Nam, nxb. Thông Tấn, 2006.
(4) “Xanh biếc giậu tầm xuân”, trang
laodong.com.vn, 6-2-2011.
(5) Trần Quốc Vượng,
Trong cõi, nxb. Trăm Hoa, Mỹ, 1993.
(6) Phụ trương Thơ của báo
Văn Nghệ, tháng 3-2005.