Tác giả bảo “ngày vào Nam, tôi còn quá bé, nhớ chẳng được nhiều”. Nhưng thực ra Trần Vĩnh Tường có nhớ nhiều những gì cô bé ngày xưa trông thấy. Nhớ hoa cau nở “vỡ tung ra, từng tia trắng ngà vươn ra như cổ tay một cô công chúa”, nhớ hoa móng tay thơm “biêng biếc”, thơm “nức nở” v.v.

Hoa đẹp hoa thơm ở mãi trong lòng, mà những hình ảnh của chịu đựng của chia lìa cũng không chịu rời lòng, mà lại có “bà” cứ nhắc mãi, thảo nào với “cháu” đất Bắc không chỉ là tên...

(Thu Tứ)



Trần Vĩnh Tường, “Bao giờ cho quên”


(Trích từ bài
Gửi về em, mùa thu Hà Nội đăng trên
khoahoc.net. Tên phần trích do người chọn tạm đặt.)



Ngày còn nhỏ, tôi vẫn nghe bà nội nói “Mẹ nó này, hôm nay mưa dzầm cả ngày, giời đất cứ như ngoài Bắc…. Để phần mẹ nó bát bún thang, có cả cà cuống, không thơm bằng cà cuống Bưởi” hay “Trong này hoa mai vàng, mạn ngược nhà mình lại sính hoa đào...”. Thế nên, đất Bắc không chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ mà còn là nỗi ràng buộc rất sâu...

Ngày vào Nam, tôi còn quá bé, nhớ chẳng được nhiều. Nhớ nhất làng Bưởi. Lối vào làng lát gạch đỏ au. Màu đỏ cam tươi nõn ưa nhìn. Có lần dọn nhà, phải bỏ đi bao nhiêu thứ, nhưng tôi vẫn cố giữ một bình đất nung, không tráng men không hoa văn, vẻ đẹp mộc mạc, gợi nhớ những viên gạch Bát Tràng làng Bưởi.

Từ đầu làng đến nhà cậu tôi phải đi qua một cái ao. Cái ao này lớn hơn ao ở Hưng Yên quê ngoại. Quanh ao trồng môt hàng dừa vốn khá hiếm ở đất Bắc. Lá dừa xòe ra như nan quạt. Những quả dừa bé tí rụng đầy mặt ao. Bờ ao viền gạch Bát Tràng. Những bậc thang cũng lát gạch, ý chừng muốn chiều chuộng bàn chân các cô gái đi gánh nước. Các cô cẩn thận bấm chân trên cầu. Tay kéo váy đen chùng xuống bắp chân, bờ mông nhịp nhàng theo hai thùng “sắt tây”, yếm nâu buộc hờ có khi tung tăng hai quả vú vừa bằng cái bánh giò. Tôi thích nhìn theo các cô đong đưa đòn gánh trên vai. Thương không để đâu cho hết, hình như chẳng bao giờ có được cái thùng nào lành lặn. Mỗi bước đi những tia nước nhỏ xoè xuống nền gạch đỏ ngoằn ngoèo trông như một đàn giun. Chiều nào đi tắm ao, tôi cũng vòi được chạy loăng quăng theo dấu nước ấy.

Hai bên đường vào làng có những bụi dâu rực những chùm quả mầu hồng hồng đo đỏ, núm phơn phớt vàng, ăn vào chua chua ngọt ngọt. Quanh làng có những bụi thầu dầu, lá đỏ tía xoè ra như ngôi sao. Tôi xin chị hái cho mươi quả, tách ra lấy cái nhuỵ bé tí mầu trắng, trên đầu có đội một cái mũ đỏ chói. Chị kính cẩn gọi là cô tiên của Tây Vương Mẫu bị giáng xuống trần. Xếp hàng cho mươi cô tiên nằm ngay ngắn trên lá dâu xanh, tha thẩn cứ thế mà chơi cho hết một buổi sáng. Đang chơi, nghe tiếng rao của bà bán kẹo mach nha là bỏ hết cả. Tiếng bà thanh và cao như tiếng chị tôi. Nhưng thật ra bà đã già rồi. Bà gánh hai nồi đất nung, đầy kẹo mạch nha trong mầu hổ phách. Bà mặc quần chân què, yếm nâu đã bạc, chân đi đất. Tóc vấn vội vàng trong mảnh khăn đen. Mắt hấp háy kèm nhèm vì nắng. Khuôn mặt nhăn nheo chịu đựng. Lúc đó tôi cứ không hiểu tại sao có những người Hà Nội cực khổ đi khắp hang cùng ngõ hẻm đổi tóc rối và vỏ quít phơi khô. Nhưng tôi rất siêng năng nhặt tóc rối đưa cho bà nội cất vào một bình sứ nhỏ, dành đổi lấy những que keo mạch nha ngọt rất thanh. Bà cười rất xinh đôi môi ăn trầu hàng răng đen đã bạc. Những người đàn bà quê hương muôn thuở đều như thế. Sắc không lộng lẫy mà lòng thuần thục. Chịu bao oan khổ tình đời mà lòng không tê tái.

Một hôm, bà nội tôi chào bà kẹo mạch nha “Bà ơi, hôm nay bà cho bà cháu tôi đãi bà năm hào. Chào bà ở lại nhớ, mấy hôm nữa tôi cho các cháu vào Nam.” Tiếng bà kẹo mạch nha kêu toáng lên “Lạy thánh mớ bái, sao cụ lại đi vấy?” Giọng bà nội tôi rầu rầu “Nào tôi có muốn đi, nhưng bố mẹ cháu đổi vào trong ấy, đâm ra phải đi theo trông cháu. Bà tính, cứ là đứt cả ruột gan chứ lại gì. Đấy, mấy ngày hôm nay đi ra đi vào chẳng còn hồn vía sất cả. Có ai muốn đi đâu bà nhể…?” Bà nội và bà kẹo mạch nha sụt sùi một lúc, tôi nghe mãi mới hiểu là nhà tôi sắp đi xa, xa lắm. Chẳng thế mà đang ở đường Hồ Trúc Bạch, mẹ tôi mang cả nhà đến Bưởi ở với ông ngoại đợi ngày đi.

Từ lúc ấy, linh tính như báo cho tôi một cuộc chia ly. Tôi thơ thẩn trong sân, cố chơi với tất cả những gì có trong mảnh sân vuông ấy. Bể nước mưa xi măng chứa đầy nước dành uống quanh năm. Hai cây cau trồng hai bên lúc đó đang tuổi trổ hoa. Hoa cau từ từ nhú lên trong bẹ, đến lúc vỡ tung ra, từng tia trắng ngà vươn ra như cổ tay một cô công chúa mười sáu tuổi. Chị tôi nói cứ như đã được gặp một cô công chúa. Hoa cau trắng rụng lấm tấm xuống nền gạch đỏ trông như một chùm pháo bông. Chạy chơi khát nước chúng tôi xin dì Út một gáo nước mưa. Uống phải ngửa cổ nhìn trời, dốc ngược cả gáo dừa lên mặt. Dì tôi không cho bỏ một giọt nào “Cháu ạ, của trời cho, không được phí.” Trời nắng hoa cau thơm gắt. Nhưng khi mưa xuống, mùi hoa dịu hơn. Tôi thích nhìn giòng nước trong thoăn thoắt từ trên trời cao rơi đan nhau, trôi tuột qua tầu cau, len lỏi như một đàn rắn hối hả trườn qua chùm hoa cau trắng mướt. Dì Út và chị tôi cười khúc khích “Hôm nay trời tắm cho công chúa.” Hạt nước như những chuỗi ngọc, quấn quít lấy những bông hoa cau, liên tiếp rớt xuống. Nước quấn hoa, hoa đỡ nước, âu yếm không rời. Dì ẵm tôi cho hai dì cháu soi bóng trong vại nước mưa. Mặt nước sóng sánh in mây trắng rắc hoa cau lấm tấm. Dì nói nhỏ vào tai tôi “Cháu đi có quên dì không?” Tôi úp mặt vào trong vại, tiếng nói rền vang “Cháu nhớ dì, cháu nhớ dì cho ăn bánh đúc…”. Dì cười, đôi mắt khép lại, gò má xuân thì nhợt nhạt vì thiếu ăn chợt xinh ửng lên “Cháu nói giống nguời bạn của dì quá.” Dì ôm tôi thật chặt nhắc đi nhắc lại mãi, mắt thoáng mơ màng. Nhưng hình như không phải nói với tôi.

Về sau này, khi đọc hai câu thơ của thi sĩ Quang Dũng,

“Vại mưa in dáng mây trời
Em soi bóng có nhớ người xa em”

Tôi ngẩn nguời mang máng hiểu chắc lúc ấy dì đang chờ đợi. Một nguời nào đó ở phương xa cũng đang chờ đợi. Cả hai người cùng chờ ngày lại cùng soi bóng bên vại nước mưa. Chỉ những nhà thơ sống nhiều và yêu thật mới có thể làm được một câu thơ như thế. Câu thơ như một máy ảnh thu đuợc hình ảnh của thế hệ 1954. Một thế hệ phủ đầy bóng tối của chia lìa.

“Hẹn mai về, hẹn mai về
Xuân rồi xuân quạnh quẽ
Người gái quê, người gái quê
Xuân buồng xuân vắng vẻ” (1)

Dì tôi có gặp lại người ấy hay cả hai cứ bên chờ bên hẹn? Tôi không bao giờ hỏi dì. Bởi vì tôi chưa về Hà Nôi. Nhưng lúc nào tôi chẳng gặp Hà Nội. Nhất là vào ngày giỗ chạp bà tôi nhắc chị tôi nhớ cúng chè hoa cau.

Tôi cũng nhớ mùi hoa móng tay, bụi hoa trồng ngay cửa sổ gần giường hai bà cháu. Hoa có mùi thơm lạ. Mãi về sau tôi không tìm được hoa nào thơm biêng biếc như vậy nữa. Dì Út giã lá hoa buộc vào mười đầu ngón tay tôi, ngày mai móng ửng hồng. Hai dì cháu đang hí hửng bị ông ngoại bắt gặp mắng cho một trận nên thân. Đám con gái bị mắng suốt ngày, đủ thứ tội. Làm đẹp cũng là một tội sao? Hoa móng tay mầu ngà, nở thành chùm như hoa khế. Hoa thơm nức nở buổi sáng sớm khi nắng chưa lên. Còn hoa buởi lại thơm vào buổi tối. Trèo lên cây bưởi hái hoa, nhà cậu không có vườn cà hoá cho nên vắng nụ tầm xuân (...)







________________________
(1)
Tâm sự gửi về đâu, Phạm Duy.