|
Trong văn hóa Việt Nam truyền thống, giữa các quan hệ gia đình hết sức gắn bó, nổi bật nhất là tình mẹ con. Sau tình mẹ con, đến tình chị em. Chị giúp mẹ nuôi em và nếu mẹ mất sớm thì chị thành mẹ! Không biết bao nhiêu chị - mẹ đã hy sinh hạnh phúc riêng vì em. Chị đã từ lâu đi vào văn vào thơ vào nhạc, chẳng hạn trong tác phẩm Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, Trần Tiến… Trong truyện ngắn “Đò đưa” của Trịnh Đình Khôi, có cái đoạn văn này “vẽ” chị thật rõ: “Cả nhà tôi thương chị nhất, người đã thay mẹ chăm sóc đàn em, mùa đông đánh tranh rải ổ cho chúng tôi nằm, mùa hè tuốt đay kết võng ru lũ em ngủ. Tối tối chúng tôi ngồi học bài, chị ngồi vá áo vặn chổi, đợi lũ em vào màn, soi đèn, đốt muỗi mới chịu đi nằm”. Chị ơi! Mẹ ơi! Thiết tưởng tình mẹ con thật chính là cơ sở từ đó xuất phát cái quan hệ tình cảm đặc biệt giữa vô số “mẹ” và vô số “con” là chiến sĩ. Và tình chị em thật thì làm nảy nở cái quan hệ tình cảm cũng đặc biệt giữa những nữ thanh niên xung phong trong cùng một đơn vị. Có máu mủ gì với nhau đâu, thế mà mẹ mẹ con con, chị chị em em, y như có! Sau đây là một người “em” khóc một người “chị” thành những lời “lửa mùa hong áo rưng rưng”: “(…) Quờ sang tay nắm lấy tay Những choòng những cuốc những ngày gian nan Kiểng vang tiểu đội xếp hàng Phía sau vắng chị gió tràn lạnh lưng (…) Ðường đêm khe khẽ nhịp tim Vừng dương rồi mọc chị nhìn thấy không (…) Chị ơi cơn lũ tháng ba Chân hương trôi dạt đã ba bốn ngày Một tuần trăng một tháng này Trường Sơn nhô núi rừng dày bóng râm Cho em khóc chị một lần Rồi ba-lô cõng hành quân vội vàng...”. (Thu Tứ)
Lê Thị Mây, “Lửa mùa hong áo” (XVI.1-4)
1.
Lửa mùa hong áo rưng rưng Chị ơi thăm thẳm tình rừng đan cây Chị chừng vừa đấy đâu đây Sấp lưng xuống suối sấp mây đổ chiều Vạt hong tay ấm lần yêu Ðường kim mối chỉ bấy điều lo toan
Cây ngủ lá ngủ cho ngoan Cành gai um khói nhôm nhoam bộn bề Lá nghiêng rộn mái chim về Rút dây động lá tóc thề cầm chân Chị vừa khoe chín tuổi xuân Nói cười vừa thốt lá đầm đầm sương
Tay quờ ôm ấp nhớ thương Chạm lưng là núi chạm vườn hoa rơi Chị vừa rủ nắng đem phơi Hàng cúc lùa gió chơi vơi nắng vàng Mùa hong áo tím thu sang Ðầu nguồn lũ xiết cuốn tràn bếp đêm
Mảnh bom ve lặng rỉ rền Que diêm đợi trấu mưa đêm đợi đèn Bầu non tình chị tình em Cỏ may găm kín lối quen thầm thì Giật mình mấy tiếng từ quy Trở màu khắc khoải ôm ghì bóng nhau
Chị ơi đường mới thông cầu Lán vừa dựng tạm trắng đầu mưa sa Trăng non, đầu tháng, mồng ba Mảnh liềm cúi gặt đồng xa đồng gần Mẹ gà tục tác ngoài sân Bầy con chiêm chiếp nhớ phần chị cho.
2.
Qua sông nắng cõng cánh cò Sông sâu dạt sóng con đò tuổi thơ Có đêm chị những mộng mơ Lá thư viết vội nỗi chờ bâng khuâng Tóc xanh xe sợi nàng Bân Tháng ba rét lắm chị lần mối đan
Anh chưa mặc áo trễ tràng Ðan rồi chị tháo gió tràn ngợp thung Sóng lòng quấn quýt thủy chung Tóc không gỡ nỗi lá rung ánh nhìn Bóng hình chị ủ trong tim Còn đây muôn mối đường kim âm thầm
Cuối rừng nhặt những ngày xuân Nhớ anh chị kể bần thần em nghe Yêu từ vọng khúc sông quê Buồng cau lổ chín đam mê vội vàng Rừng bứt lá lá âm vang Nên duyên chị thắm dịu dàng thêm đau
Chị thường đi trước về sau Miếng cơm sẻ nửa lá rau nhường phần Chị nào tiếc máu tiếc thân Ðâu bom dữ chị tự phân cho mình Phá bom cảm tử tự tin Bàn tay mười ngón chị xin được làm
Ngòi bom - tay chị tay vàng Khúc dây cháy chậm tày gang sống còn Bàn tay mười ngón phá bom Chị từng vuốt tóc em còn giữ hơi Chị ơi áo chị em phơi Vạt so le vạt đất trời ngẩn ngơ.
3.
Vạt nào chị gói mộng mơ Mưa sa chị nhặt câu thơ hẹn về Ðói lòng ăn trái sim quê Hàm răng còn tím bốn bề gió sương Chợp chờn cánh nọ uyên ương Chị yêu thuở ấy nhớ thương bây giờ...
Còn than ủ nỗi đợi chờ Trầu cánh phượng cá lượn lờ trăng non Vang đâu tiếng chị cười giòn Gió rung mái lán mưa mòn bậc đêm Ðường thông xe rú vang rền Chừng đâu chị gọi lời quên lối này
Quờ sang tay nắm lấy tay Những choòng những cuốc những ngày gian nan Kiểng vang tiểu đội xếp hàng Phía sau vắng chị gió tràn lạnh lưng Nắng mùa hong áo rưng rưng Sào cong lẫy gió nửa chừng lũ dâng
Gọi tên gọi tuổi gọi xuân Tiếng nấc nén lại quây quần hết đây Mắt nhìn ngóng ngã ra cây Chị vừa ôm súng đứng ngây chờ phà Nồm non lật áo bà ba Eo thon tà xổ tóc òa xuống vai
Ði qua hết nửa đêm dài Than hồng má chị trăng cài đầu non Chị ngồi ôm súng đội bom Nhịp tim còn đập cười giòn còn vang Từ trong đất ấm xương tan Ngực nhô lên núi dịu dàng Trường Sơn...
4.
Bao nhiêu lá bấy cô đơn Sương khuya đổ giọt chập chờn hóa xanh Nhặt lên những cỏ cho lành Nhặt lên những đốt cho thành thịt xương Nhặt lên từng đốt nhớ thương Nhặt lên ngày tháng con đường khai sinh
Ðường đêm khe khẽ nhịp tim Vừng dương rồi mọc chị nhìn thấy không Bờ cỏ chỉ cây cỏ ngồng Dây phơi rỡ nắng mênh mông nửa chiều Lán che mái vọng cô liêu Vòng tay ôm cánh đồng yêu vội đầy
Chị ơi mây trắng ấp mây Ðỉnh U Bò vọng đá gầy thác cao Lắng trong nguồn mạch xôn xao Hình như máu chảy lệ trào chưa ngưng Chớp đằng đông muối cay gừng Bát cơm gác đũa nghẹn từng ngọn rau
Vết đau đường cũng cựa đau Những choòng những cuốc hôm sau thiếu người Áo tân binh lá bời bời Rừng lay đến rễ lở bồi phận sông Nào đâu nghe thấu tấc lòng Mưa kia dồn dập ngược dòng nước sa
Chị ơi cơn lũ tháng ba Chân hương trôi dạt đã ba bốn ngày Một tuần trăng một tháng này Trường Sơn nhô núi rừng dày bóng râm Cho em khóc chị một lần Rồi ba-lô cõng hành quân vội vàng... (Đoạn 1-4, khúc XVI - “Chị ơi”, trường ca Lửa mùa hong áo, nxb. Quân Ðội Nhân Dân, 2003)
|
|