Nguyễn đi theo là để quan sát mà về sáng tác và để giúp động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ, chứ không có nhiệm vụ tham gia đánh giặc hay vận động dân chúng. Ấy nhưng cứ đi theo mãi, khỏi sao có lúc công việc nó bắt phải tham gia.

Cái người có công làm Nguyễn bỗng khám phá ra mình cũng có tài dân vận là “con ông ké Thổ chủ nhà”. Buổi khai hội ấy, hết sức bất ngờ, “anh tuyên bố luôn là tôi sẽ nói (…) Ô hay, sao lại (…) Ô hay (…) (Nhưng) Tất cả mọi người đồng thanh hoan hô (…) Tôi bèn trình bày (…) Anh lại tuyên bố (…) Kìa, đùa dai quá đấy! (Nhưng) Tất cả lại hoan hô (…) Tôi (…) nói tiếp (…) Mọi người cười (…) Tôi (…) trình bày cả về (…) làm luôn cả cái vấn đề (…) nhảy sang cả nhận xét về (…) Các ông ké, bà ké gật (…) Tôi nhìn lại (…) thì ra tôi đã nói hơn hai tiếng”. Một sự “bất đắc dĩ” “thật là ngộ nghĩnh”! “Ngộ” có gây nghiện. Sau cái đêm công tác dân vận không tính trước được “mọi người khúc khích cho là ưu điểm”, “tôi thành thực cảm thấy cái thú sinh hoạt với đông đảo đồng bào Thổ địa phương”, cứ hễ gặp dịp là lại “ngỏ ý muốn nói chuyện với đồng bào”…

Quân dân cá nước, quân được dân hết lòng giúp đỡ, cứ “làm xong” đồn này lại “làm” tiếp ngay đồn khác.
“Đường số 4 (…) vặn mình luôn luôn”: trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể tới đầu năm 1949 bộ chỉ huy Pháp đã phải dành riêng cả một trung đoàn “chuyên lo ứng cứu trên con đường nguy hiểm này”, trung đoàn ấy rồi bị thiệt hại nặng đến nỗi “binh sĩ địch gọi là đơn vị của “những người vô tội bị kết án tử hình””!

Dưới những cơn “mưa a-xít” mỗi ngày mỗi to mà kháng chiến liên tục trút xuống, cái “đai sắt” giặc đánh lên “đỉnh đầu Bắc bộ” nhanh chóng rã nát. Chẳng bao lâu nữa sẽ tới ngày Bác đi Chiến dịch Biên Giới, Cao Bằng giải phóng…

Trở lại nhà văn cán bộ dân vận nghiệp dư. Tiếp xúc nó tác động cả hai chiều. Dân quý mến cán bộ và cán bộ hướng về dân với “tình cảm dạt dào”, khi ra đi “chào bùi ngùi”, vừa đi “cổ vừa ngoái lại”... Không phải tình cờ đâu, cái chuyện sau ngày giặc cút Nguyễn còn nhiều lần trở lên miền cao.
(Thu Tứ)



Nguyễn Tuân, “Tình chiến dịch” (2)




Tự nhiên tôi thành ra cán bộ dân vận. Con ông ké Thổ chủ nhà ấy làm cán bộ Thông tin xã (…) Tôi ngỏ ý với anh muốn dự một buổi khai hội của dân chúng trong thôn (…)

Nhà sàn lục đục người kéo đến. Các ông ké sù sì, các bà ké khô gầy, các em thiếu nhi, các thanh niên lanh lợi và các chị phụ nữ đơn giản. Tất cả ngồi xuống thành một vòng tròn áo chàm (…) Anh bạn Thông tin xã đứng dậy tuyên bố lý do, giới thiệu tôi. Thế rồi anh tuyên bố luôn là tôi sẽ nói (…) về tình hình chiến sự địa phương. Tất cả mọi người đồng thanh hoan hô (…) Ô hay, sao lại thành ra thế này? Anh bạn Thông tin bảo tôi cứ nói (…) Ô hay (…) Nhưng thôi, mọi người đang nhìn (…) chăm chăm chờ nghe (…) Tôi bèn trình bày (…) Anh bạn Thông tin thông ngôn (…) (Tôi nói xong, anh bạn Thông tin lại) tuyên bố: “Bây giờ đồng chí Văn nghệ nói về nhiệm vụ của thôn xã chúng ta đối với bộ đội đóng ở đây”. Kìa, đùa dai quá đấy! Tất cả lại hoan hô (…) Tôi bất đắc dĩ lại nói tiếp và giải thích (…) về những vấn đề (đồng bào giúp đỡ) tải thương, chuyển vận nay mai khi bộ đội đánh những đồn gần đây (…) Tôi lại còn giải thích dàn hòa về việc chặt tre: “Bộ đội hành quân đánh giặc đeo ở trên người nhiều thứ: ba-lô, ruột tượng gạo, lựu đạn, dao, đạn, súng trường. Tre để dựng lán, bộ đội không thể mang theo được vì nặng quá rồi. Bởi thế phải dùng tre của dân chúng địa phương mà làm lán. Bộ đội cũng biết xã ta dành tre để mùa xuân làm những guồng lấy nước cấy ruộng. Nhưng việc bộ đội làm lán ở còn cần hơn. Có nhổ được đồn giết hết giặc thì rồi ở đây mới yên ổn mà cày cấy. Đồng bào không nên kêu ca về việc chặt tre (…)”. Tôi lại trình bày cả về việc bộ đội mượn nồi, mượn chảo. Mọi người cười nói tỏ ý hiểu một cách vui vẻ. Anh Thông tin xã được thể, nhắc tôi nên làm luôn cả cái vấn đề phòng địch khủng bố sau khi bộ đội rút lui. Tôi lại nhảy sang cả nhận xét về phi cơ địch và nên tránh nó như thế nào. Các ông ké, bà ké gật, các chị phụ nữ vui cười. Tôi nhìn lại đồng hồ, thì ra tôi đã nói hơn hai tiếng. Thật là ngộ nghĩnh (…)

Bế mạc buổi khai hội (…) anh Thông tin xã bảo các em nhi đồng hát một bài hoan hô “đồng chí Văn nghệ”! Hôm sau tôi đem việc này kể lại với một số cán bộ đơn vị, mọi người khúc khích cho là ưu điểm! Và những ngày sau, khi tôi đi chơi các nhà dân chúng, sự mời mọc đậm đà hơn (…) và hỏi mua lạc, mua khoai các bà ké không từ chối nữa. Nếu ở nhà hết hoặc không có, mấy chị phụ nữ lại mau mau nhận đi mua hộ cho ở nhà khác, xóm khác. Ngoài giờ công tác ở các đơn vị, tôi xách cái túi gai chạy đi các nhà, ngồi góp chuyện bên bếp lửa, tập nói tiếng địa phương. Tôi thấy tôi trở nên thân mật với người ở bản xóm như là đã quen biết từ lâu lắm. Rồi nó thành hẳn một nếp tình cảm (…) lúc đơn vị chuyển địa điểm sang bản khác, mình thấy nhớ tiếc (…)

Cữ này tôi công tác ở một tiểu đoàn khác (…) một bộ phận đóng ở (…) sát mép khuỷu sông Kỳ Cùng. Nước chỗ này lừ đừ gần như tù đứng, mặt sông rêu bọt đóng thành nhiều vệt to tròn. Khúc ngoặt này sâu lắm. Có con giải mép vàng ệch vẫn ngoi lên, rình vịt dân nuôi bơi xuống là đớp. Những ngày nằm ở đây chờ tin tức của anh em trinh sát về tình hình địch tôi thấy sốt ruột quá. Địch đóng một tiểu đoàn rải rác trên các quả đồi kiểm soát con đường hẻm mình vẫn dùng lúc vượt đường số 4. Đơn vị chúng tôi vẫn đi về luôn luôn như là lượn rồng rắn qua ngang đường nhựa (…) Ban ngày, bọn tôi không ở nhà sàn để đề phòng khu trục. Đây là đất cũ của đơn vị, cái cơ sở hoạt động của đơn vị trong chiến dịch mùa xuân trước. Mộ chiến sĩ lố nhố dưới bóng cây bản này. Dân chúng phân tán cả rồi. Tối, mới có một vài bóng người địu con về thăm qua nhà.

Tôi ngùi ngùi trong lòng, muốn gặp mặt bà con ở đấy. Gặp một đồng chí đánh cá bán cho hợp tác xã của đơn vị, tôi ngỏ ý muốn nói chuyện với đồng bào một buổi tối nào đó. Thật ra từ cái lần giải thích ngộ nghĩnh với dân chúng do anh Thông tin xã giới thiệu đột ngột, tôi thành thực cảm thấy cái thú sinh hoạt với đông đảo đồng bào Thổ địa phương, tuy tôi không nói được tiếng miền núi. Cái nhà sàn rộng, đạn xuyên trông rõ cả nền trời cứ lỗ chỗ hằng chuỗi sao sáng, đêm ấy đốt nhiều củi giữa bếp. Tôi đóng vai chủ nhà mời các giới đồng bào đang leo thang lên. Anh đại đội trưởng tủm tỉm nhìn tôi và chào hỏi nhiều cụ, nhiều chị, nhiều anh. Các “nhình”, các “ca”, các “noọng” toàn là người cũ anh thuộc tên. Anh đã hoạt động nhiều ở đây từ đầu năm. Dân chúng niềm nở, soắn suýt lấy anh, phàn nàn hết cả “ngà” vịt, lạc, đỗ không bán cho bộ đội được đủ như chiến dịch trước. Tất cả quây quần lấy bếp lửa. Nhà sàn rộng chứa được gần trăm người. Tôi ngồi giữa bắt đầu kể những mẩu chuyện kháng chiến ở các khu xa, bắt đầu bằng con đường số 5 cho đồng bào của đường số 4 nghe (…) Lúc gần khuya ra về, nhiều người bắt tay tôi nắm rất chặt. Ông ké vẫn chở bộ đội qua lại hai bờ sông từ mấy năm nay, nắm mãi tay tôi, giọng nói run run: “Đi đâu rồi tết cũng cố về đây nhá. Tôi sẽ câu con giải ngoài vực kia lên mời đồng chí ăn. Thịt giải ngon lắm. Lần trước cũng có câu được một con to gần bằng cái nong. Ăn uống ròng rã ba ngày vui quá. Đồng chí nói chuyện tôi nghe thích lắm, và nhiều chuyện cụ thể hơn của Thông tin xã”.

Tôi sinh hoạt với dân chúng địa phương được đến dăm thôn trong xã rộng. Ai cũng hẹn trở lại ăn tết. Tôi cũng nhận lời nhưng không tin mình trở lại kịp tết một chút nào. Trong bụng chỉ tự nhủ sẽ trở lại đây một năm nào, nhân một công tác ở công trường dựng lên ngày Kiến Thiết sau này. Tôi biết rằng ở đây nhiều đồng bào đã nhớ tên tôi và cả người tôi đã thấm sâu vào cảnh và người mộc mạc đáng yêu nhất vùng này. Nhiều khi đơn vị sắp chuyển chỗ tôi đi từ giã bà con, bộc lộ hết tình cảm dạt dào. Nhưng lại cũng là một dịp để tôi nhận thêm một bài học của cuộc đời chiến đấu, là ở mặt trận, không nên chào hỏi ồn ào quá. Ở lúc nào biết lúc ấy, đi thì cũng lẳng lặng mà chuẩn bị. Thấy trong người phát sinh nhiều ý tình thì cũng chỉ nên biết vậy mà giữ trong lòng. Cũng là một sự miễn cưỡng nó làm cho bề ngoài của một số cán bộ đượm mầu khô khan. Nhiều khi mệnh lệnh là rời ngay địa điểm, hôm sau lại trở lại đóng ngay tại giữa cái nhà sàn hôm qua mình vừa om xòm gửi lời chào bùi ngùi cùng là ước hẹn. Tôi bị bẽ hai ba chuyến như thế. Rồi kệch.

Bộ đội rút về bên này đường số 4, bao giờ dân chúng cũng buồn. Nhiều người đòi đi theo, nhiều em kêu mới tập hát được có mấy bài thì các anh lại đi mất rồi. Có em tự an ủi là rồi sẽ có nhiều anh khác ở đơn vị khác tới. Tây chưa rút lui hết thì còn nhiều anh khác thay nhau mà đến vớ! Tôi lẽo đẽo theo dòng quân đi, rung rinh lá ngụy trang, cổ còn ngoái lại nhìn các em đứng vẫy tay cạnh những guồng nước cao bằng ngọn cây to. Nhiều chị phụ nữ gánh đạn, gánh gạo tiễn bộ đội sang đường, gọi là theo bộ đội đi tây nam, đông nam. Vượt đường một đêm, lao xao chở mảng qua sông, đơn vị về tới khu an toàn, các chị phải quay lại mắt rưng rưng lệ, tần ngần đi lại quãng đường vừa bước đêm qua. Ông ké dẫn đường bộ đội cũng quay về, chỉ xin mấy viên ký-ninh vì đang gây gấy. Ông dặn lần sau các đồng chí có sang thì lại tìm ông để ông đi dẫn đường đánh đồn.

… Tôi đã nói được một phần sơ lược nào về đường số 4. Con đường ấy đang vui nhộn vặn mình luôn luôn trong những đêm Cao Bắc đang nhổ đồn và vận động, phục kích, tiếng động vang đến biên giới phía bắc và ảnh hưởng xa xuống trung du, đồng bằng và như đợt sóng điện đài vang vang thấu Đồng Tháp Mười. Cuối năm 47, Tây tốc chiến tốc quyết, bon bon xe sâu róm trên đường này, đánh một cái đai sắt, đai lửa lên đỉnh đầu Bắc bộ. Chúng xây dựng hệ thống vị trí, phát trụi đồi, bao nhiêu sườn đồi bị lột da trơ đất thịt đỏ như máu.

Các bốt nhô lên giữa các sơn hệ như một xâu mũ đỏ đánh rơi ven đường. Chiều tà Việt Bắc, Đông Bắc rừng rực trên những đồn Pháp, trong ống nhòm trông như những mâm cà độc dược, như những kim tự tháp loét ngọn. Mở bản đồ Bắc bộ ra xem thấy nhiều khuyên tam tài, thấy nhiều nốt ruồi rướm máu mọc hai bên gân trán Việt Bắc mà đâm ngại ngùng cho công cuộc trường kỳ ba giai đoạn. Hai ven đường và hai ven sông Kỳ Cùng, không có một cái bản nào mà nhà sàn không xước ra vì đạn khu trục và sườn đồi xạm trụi vì lửa bom. Nó định chăng một cái lưới nhện, yên trí là cả đến ruồi bên kia cũng không sang được bên này đường. Nhưng sang 48, đường số 4 không an ninh. Đã có những mũi tên thuốc độc tạch ngang vào sườn đường, đã có những viên đạn lấy lườn đường làm mục tiêu và mìn nổ như sấm dậy từng chặng ngoặt. Dân chúng vẫn lọt qua kẽ đồn, cán bộ vẫn chọc qua đường. Tiếng giầy đinh pa-tờ-rui thưa dần, tiếng cơ giới không còn phăng phăng mà dọ dẫm, ngại ngùng. Rồi đến ngày nay, mỗi lần Tây định chuyển chỗ trên đường nhựa thì phải tốn nhiều thịt, nhiều máu. “Đường số bốn trắng xóa dưới trăng mờ”, trắng xóa những đầu lâu, những bộ xương lê-dương, Ta-bo, Ma-rốc. Cho đến khi tôi theo chiến dịch thu đông vừa rồi thì tình trạng “ông” Tây và máy móc phụ tùng của quân đội nó bi lắm rồi. Đường số 4 bật mình, các cứ điểm bị cơn địa chấn nhân tạo lật ngửa đổ nhào gẫy cụt ngã xuống cứ như trời giáng. Con đường máu lại thành con đường lửa. Việc nó phải bán sới khỏi đường “liên bang” số 4 chỉ còn là một câu chuyện ngày giờ. Tôi lại nhìn vào cái bản đồ anh chỉ huy mở ra mỗi lần ta vừa làm xong một đồn.