“Sương đã xuống, phảng phất xanh nhẹ trên sân bay mênh mông…
Gió mùa thu… mẹ ru con ngủ… tiếng cô danh ca hát bài ru con Nam bộ, xa xôi, gần gũi, ngọt ngào… Mấy anh ngồi nghe vẫn không nói gì (…) đấy là những đồng chí thợ máy của chiếc Mích còn chưa về.

Nín đi con… ngủ, ngủ đi con… (…) Con hỡi con hời, con hỡi con hời… hỡi con… tiếng ru tắt rồi mà vẫn văng vẳng trong gió chiều đang lao xao trên mặt cỏ”.

Cái đoạn văn hay quá.

Đêm đã xuống hẳn, họ vẫn ngồi đó. Chính ủy trung đoàn đến, ôn tồn: “Anh em về ăn cơm thôi, tối rồi”. Xong một ngày trực chiến.

(Thu Tứ)



Nguyễn Đình Thi, Mặt trận trên cao (4)



Đợt bay huấn luyện của đại đội bốn đã đến những ngày cuối cùng. Không mấy buổi tập của họ là không ngắt quãng vì bọn địch đến quấy rối nhưng đến nay, những chiến sĩ trẻ thuộc lớp Lương và Toản đã có thể coi là “tốt nghiệp” về căn bản, chỉ còn luyện kỹ thêm ít ngày nữa trước khi vào thực sự chiến đấu.

Sau buổi bay “biên đội xuyên mây” sáng hôm ấy, chiếc xe ca đón anh em đại đội bốn đang đi giữa đường về nhà thì lại báo động! Xe đỗ lại dưới bóng cây, Kiến ra lệnh cho anh em tản ra theo một đường hào gãy khúc trên mấy quả gò bên đường. Họ nhảy ào ào trên xe xuống như một đám học trò tới giờ ra chơi chạy băng lên gò tìm những chỗ nấp rải rác. Những cái mũ sắt nhấp nhỏm thập thò, từ hố nọ qua hố kia bay lên những câu nói chuyện và đôi khi một điếu thuốc lá, một cái bật lửa nữa.

- Im lặng nhỉ.

- Chưa thấy động tĩnh gì.

- Cái chuồng chim của cậu liệu hôm nay có xong không?

- Này, ở sau nhà có cáo các cậu ạ! Tối hôm qua tớ vừa đi nằm, nghe đánh quác một cái đầu nhà, chạy ra soi đèn thì đã mất con gà rồi. Con mái đang ấp.

- Anh Bản hôm nay phải khao anh em cái gì chứ. Mấy khi bà chị lên thăm. Một bữa nước chè nhé!

- Được! Được! Khó gì cái ấy!

- Kìa!

Toản nhảy lên miệng hố và thốt lên. Họ đã nhìn thấy những bóng dài xám xịt của mấy chiếc Ép Trăm Linh Năm vừa từ sau một quả đồi phía xa ngửa bụng vọt lên. Tiếng bom, súng nổ ù ù lẫn lộn vào nhau không dứt. Bọn địch vẫn kéo đến bên mấy quả đồi mù mịt khói bụi.

- Tên lửa! Kìa! Kìa!

Một vạch khói dài cuồn cuộn bay tới một tốp địch, chúng nó đứa đâm chúi xuống thấp, đứa vọt ngang giạt tán loạn mỗi thằng một ngả.

Bọn giặc đã cút vội, để lại một đám cháy trong một lũy tre. Toản vẫn đứng nhìn, tần ngần như còn tiếc rẻ.

Họ lục tục xuống đường. Toản đi bên Lương, bá vai anh:

- Nó rình rập ngứa mắt quá!

Lương đấm khẽ vào lưng bạn:

- Được rồi, thế nào cũng có dịp! Bọn mình còn độ tuần lễ nữa là sang trực chiến chứ mấy.

*

Trưa hôm ấy lại căng thẳng, các đợt báo động cứ tiếp theo nhau không ngớt. Quãng gần một giờ, một chiếc Mích đi vội, chừng nửa tiếng nghe nó trở về, mấy anh em trong biên đội chạy ra. Chiếc máy bay trắng toát lướt qua trên cao, Bản nheo mắt nhìn lên:

- Đúng rồi! Bắn một tên lửa rồi!

Đại đội trưởng và chính trị viên đang ngồi chụm đầu với nhau làm việc trong căn phòng bên, cũng chạy ra, Khải hỏi:

- Cậu nào đấy nhỉ?

Kiến nhìn theo hút chiếc Mích đang vòng thấp xuống đằng xa.

- Có lẽ Lân.

Mấy anh em vừa trở vào trong nhà thì thấy Phúc, anh sĩ quan tham mưu, đi qua. Họ nói:

- Phúc có tin gì không?

- Vừa hạ một máy bay không người lái.

Phúc cười nhoẻn, bỏ cái mũ sắt, bước vào kéo cái ghế đẩu ngồi, chợt quay lại phía Lương:

- À! Cái RB-66 cậu bắn rơi bữa trước có bảy thằng Mỹ đấy, bốn thằng chết cháy, ba thằng nhảy dù ra mình bắt được hai ngay buổi sáng ấy, còn một thằng nó lẩn thế nào mà hôm qua mới tóm được. Chà, chiều nay các anh khó mà hoàn thành kế hoạch mất. Có triệu chứng nó muốn đánh. Hiện bây giờ bảy chục chiếc của chúng nó đang ở chung quanh chúng ta.

Phúc uống vội ca nước rồi đứng dậy lật đật chạy đi.

Nhưng mặc dù địch quấy tợn, buổi chiều hôm ấy đại đội bốn cũng bay nốt gần xong kế hoạch bài tập. Buổi chiều nắng quá. Trên sân bay mênh mông trần trụi, khí trời bốc lên hầm hập, rung rung như trên một đống lửa. Nhất là ở đường băng bê-tông thì chỉ đi qua cũng thấy mặt nóng rát rạt. Những chiếc máy bay trắng lóa, nhìn nhức mắt. Các đồng chí thợ máy đội những chiếc mũ cói vành rộng quá vai, anh nào anh mấy mặt đỏ dừ. Từng tổ sẵn sàng bên các máy bay trực chiến; lưng áo ướt như tắm, họ ngồi, nằm, nép vào một tí bóng râm ở dưới cánh và thân máy bay, hễ báo động là chỉ vài giây sau máy đã nổ được rồi. Còn anh em lái thì có lẽ khổ nhất lúc này là luôn luôn phải đóng đủ bộ đồ bay, cả mấy lớp quần áo, mũ, giày. Cái quần kháng áp lên cao thì quý như vậy nhưng ở mặt đất bây giờ thì nó cộm và bí hơi quá. Ở buồng trực chiến, hai cái quạt máy nhỏ chạy không ngừng, mấy đồng chí lái đã nai nịt sẵn, tấm bản đồ bay giắt trong ống giày da dưới chân, nằm ngả lưng chợp mắt trên mấy tấm phản, chung quanh không có ai nói to, động mạnh. Vậy nhưng vừa có lệnh báo động là họ đã chồm dậy và chỉ mấy giây sau đã ngồi trên khoang lái, sẵn sàng mở máy rồi.

Anh em đại đội bốn vừa hội ý xong và bắt đầu bay. Một đôi, rồi một đôi khác đã lên trời. Trên đường băng vừa qua còn im lặng, chỉ có nắng dãi trên những chiếc máy bay chói lòa, lúc này tấp nập rối rít. Những chiếc ô-tô chạy đi chạy lại như những con thoi, máy phản lực rít ào ào, và len lỏi giữa tất cả những ô-tô, máy bay ấy, có một chiếc xe đạp ba bánh đi đưa kem và cà-phê đá ra cho anh em. Chiếc xe ba bánh tới đâu là ở đấy ồ à lên những tiếng cười, những tiếng nói đùa.

Bản và Toản vừa cất cánh. Lương đã bay xong một chuyến cùng với Sáu, anh ngồi xệp trên bãi cỏ, bỏ mũ da, khoan khoái uống cốc cà-phê đá và ngửa đầu theo dõi những đường nhào lộn của hai người bạn trên không. Bên cạnh anh, một đôi khác đang chuẩn bị, hai anh lái cầm hai cái mẫu máy bay bằng nhôm như đồ chơi của trẻ con, dò đi từng bước theo nhau, vừa bước đi vừa đưa hai chiếc máy bay nhỏ nhào lộn theo đủ các kiểu mà chốc nữa sẽ làm thật trên trời.

Sáu nằm ngửa trên cỏ, gối đầu lên cánh tay, hai hàng lông mi mắt hấp háy vì nắng.

- Toản nó lái lẹ làng thật!

Sáu bỗng bật cười, ngồi nhỏm dậy:

- Cái thằng cha Bản!

Trên không, chiếc Mích của Bản vừa làm một động tác rất tinh quái. Lương cũng cười.

- Chịu cái ông ấy thật!

- Mình đã xem cậu ấy dùng miếng “đà đao” với một thằng Ép Bốn, thằng địch thấy cậu ấy chạy, tưởng bở cứ hùng hổ đuổi, bất ngờ cậu ấy hãm hẳn lại cho nó trượt ra đằng trước, rồi vọt lên bắn nó rơi ngay không kịp ngoắt đầu lại. Đến lúc bốn năm thằng khác xúm lại đuổi, cậu ấy vẫn cứ bay lừng khừng, rồi thình lình quay ngược lại cứ thế đâm thẳng về phía chúng nó, mấy thằng địch rẽ ra, cậu ấy nhào một cái xuống sát mặt đất đi luôn.

- Này, anh Sáu, làm thế nào để tối nay anh Bản ra gặp chị ấy một lúc chứ.

- Ờ, hai hôm nay, chị vẫn đợi ngoài nhà khách, chắc đang đỏ mắt rồi. Biên đội trưởng bận chưa ra gặp vợ được nhưng coi bộ phấn khởi dữ, nhỉ!

Hai chiếc máy bay, xong bài tập, đã xuống thấp, lượn vòng chung quanh sân bay. Bỗng một chấm sáng xanh vọt lên. Báo động! Lại một quả pháo sáng nữa! Lệnh xuất kích.

Hai người đứng cả lên. Tiếng máy đã gầm lên gắt gao, bốn chiếc Mích theo nhau lăn nhanh ra đường băng lớn ầm ầm cất cánh gấp rút. Lên cao, bốn chiếc cùng nhỏ đi rất nhanh rồi biến mất ở chân trời. Trên sân bay bỗng im hẳn. Chỉ có tiếng rì rì khẽ của những chiếc ô-tô dắt, chở mấy tổ thợ máy của biên đội vừa xuất kích chạy từ từ về phía cuối đường băng để đợi sẵn. Chiếc ô-tô chữ thập đỏ của bác sĩ sân bay cũng mở máy đi theo.

Bản và Toản từ nãy vẫn lượn trên sân bay, lúc này được lệnh hạ cánh.

Mười lăm phút qua. Rồi hai mươi phút. Hai mươi lăm phút…

Từ đài chỉ huy, những tiếng nói trong vô tuyến điện thanh vẳng ra, nghe không rõ câu gì. Nhưng họ vẫn có tin truyền cho nhau xì xào.

- Gặp địch rồi. Đang hỗn chiến.

- Một Ép Trăm Linh Năm còn cả bom rơi xuống nổ giữa cánh đồng.

- Hình như Quảng bị thương.

- Cháy một thằng nữa.

Ba mươi lăm phút… Bốn mươi phút. Im lặng từ đầu đến cuối sân bay. Những con mắt bắt đầu ngóng về phía chân trời, chờ đợi.

Họ đã về kia. Một chấm đen trên nền mây.

Chiếc máy bay tiến đến rất nhanh, người ta có cảm tưởng như nó còn nóng hổi thuốc đạn. Đôi cánh nghiêng nghiêng, nó xuống sân bay ngay.

Hai chấm nữa vừa nhô lên sau đám mây đỏ đang ùn lên cao mãi ở một góc trời.

Anh em đại đội bốn thấy chiếc xe com-măng-ca của trung đoàn trưởng chạy về cuối đường băng, nơi chiếc Mích vừa hạ cánh còn gầm gừ mấy hồi trước khi tắt máy hẳn.

Hai chiếc máy bay về sau cũng đã tới trên đỉnh sân bay và hãm máy lượn thấp xuống thong thả, chạm đất rất êm.

Năm phút, rồi mười phút, hai mươi phút… Chiếc xe com-măng-ca đã chạy trở lại, trên xe, ngồi cùng trung đoàn trưởng, người ta thấy ba đồng chí vừa hạ cánh. Xe chạy nhanh qua, anh Thuần ngồi ở ghế đằng trước đang ngoái lại, gật đầu nghe ba đồng chí phi công.

Mặt trời đã lặn. Sân bay chìm vào trong bóng chiều bát ngát. Trên đường băng chỉ còn lại mấy chiếc máy bay trực chiến vẫn xếp hàng in bóng đen sẫm lên nền trời rực đỏ của buổi chiều hè dai dẳng. Những đơn vị người lái, thợ máy làm việc ban ngày đã về cả. Nhưng mấy xe tải lại vừa đưa mấy chục đồng chí ra bắt đầu sửa soạn cho những chuyến bay đêm.

Ở cuối đường băng, chỗ đón các máy bay hạ cánh, lúc này không còn ai. Một chiếc xe dắt, không có người, vẫn đỗ ở cạnh đường băng như bị bỏ quên ở đó. Nhưng không phải, người ta nghe thấy gần đấy văng vẳng tiếng nhạc. Những người của chiếc ô-tô ấy đang ngồi bên vệ cỏ, quanh một cái đài bán dẫn.

Sương đã xuống, phảng phất xanh nhẹ trên sân bay mênh mông… Gió mùa thu… mẹ ru con ngủ… tiếng cô danh ca hát bài ru con Nam bộ, xa xôi, gần gũi, ngọt ngào… Mấy anh ngồi nghe vẫn không nói gì, họ ướt nhoáng mồ hôi lẫn với dầu mỡ: đấy là những đồng chí thợ máy của chiếc Mích còn chưa về.

Nín đi con… ngủ, ngủ đi con… bài hát sao dịu dàng quá, những lời mộc mạc, không thể nào giản dị hơn, mà sao không bao giờ cũ… Con hỡi con hời, con hỡi con hời… hỡi con… tiếng ru tắt rồi mà vẫn văng vẳng trong gió chiều đang lao xao trên mặt cỏ.

Chung quanh bắt đầu tối dần. Đây đó lác đác mấy chấm đèn điện. Một anh dứt một nắm cỏ và ngẩng lên.

- Bây giờ mới mát một tí.

- Này cậu, có phải sao hôm với sao mai là cùng một ngôi sao không?

Một tiếng dế vừa khẽ kêu ri rỉ trong cỏ. Tiếng dế ngừng lại rụt rè, rồi lại dội lên ran ran như thi với tiếng nói trong đài, rồi bỗng lại bặt hẳn, như nghe ngóng.

Trên bầu trời còn thoi thóp mờ sáng, những ngôi sao lấm tấm hiện lên mỗi lúc một nhiều. Mấy rặng tre xa xa phía trước đang tỏa khói lam. Người ta đã về thổi cơm tối rồi.

Đêm đã xuống hẳn. Chung quanh mấy anh thợ máy, mặt đường băng bỗng hắt lên từng đốm sáng tím màu hoa cà. Đèn đêm đã bật, sân bay lại bắt đầu làm việc.

Có tiếng máy ô-tô chạy đến gần. Một chiếc xe com-măng-ca đỗ lại, bóng một đồng chí cán bộ bước xuống.

- Tổ năm đấy phải không?

Mấy tiếng xì xào.

- Chính ủy đến.

Cái đài tắt đánh tách. Đồng chí chính ủy trung đoàn hỏi tiếp.

- Đồng chí Phòng, tổ trưởng đâu nhỉ?

- Có tôi.

Một bóng chạy ra đứng nghiêm. Tiếng chính ủy ôn tồn:

- Anh em về ăn cơm thôi, tối rồi.

- Báo cáo chính ủy…

- Cậu cho anh em về đi nhé.

- Báo cáo anh… đồng chí Quảng…

- Ừ, mai thì có tin đích xác thôi.

Họ theo nhau đứng dậy, ra leo lên xe. Chiếc ô-tô dắt bật đèn, từ từ chạy đi. Đồng chí chính ủy đứng nhìn theo cho đến lúc ánh đèn đã xa, rồi anh lên com-măng-ca, tới chỗ nhà trực chiến đêm. Trên quãng cuối đường băng, chỉ còn lại những đốm sáng tím biếc là là mặt đất và tiếng dế kêu lúc này ran lên ba bốn phía trong cỏ tối.

Bỗng cả bóng đêm như gầm lên. Mặt đường băng hiện lên trắng xóa. Một chiếc máy bay loang loáng trong ánh đèn pha sáng quắc lao đi như tên bắn và cất cánh, vụt biến mất vào trời đêm. Đèn tắt phụt, tất cả lại tối mịt. Trên cao, một chấm lửa đỏ rực xa đi dần, giữa những vì sao chi chít lấp lánh im lặng.