Sau khi thỏa thuận với Nhật, Pháp tập trung quân đàn áp dữ dội. Đến cuối năm 1940 thì Khởi nghĩa Bắc Sơn hoàn toàn tan rã. Nhưng tinh thần Bắc Sơn còn mãi.



“Khởi nghĩa Bắc Sơn”



Ngày 25-9-1936, tại thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng, đồng chí Hoàng Văn Thụ tuyên bố thành lập chi bộ đảng cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn. Việc này là một bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Bắc Sơn. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ.

Năm 1939, đồng chí Lương Văn Tri, xứ ủy viên xứ ủy Bắc Kỳ, được phân công phụ trách về quân sự. Đồng chí đã mở nhiều lớp huấn luyện, báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ đấu tranh vũ trang giành chính quyền.

Ngày 22-9-1940, phát-xít Nhật đánh vào Lạng Sơn. Thực dân Pháp đầu hàng, chính quyền tay sai hoang mang, lo sợ. Đám tàn binh Pháp rút chạy theo đường 1B qua Điềm He, Bình Gia, Bắc Sơn về Thái Nguyên. Đi tới đâu chúng cũng ra sức cướp bóc, bắn giết nhân dân ta tới đó, làm cho nhân dân căm thù đến cực điểm, quyết tâm nổi dậy giết giặc.

Ngày 25-9-1940, một số đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn về tới địa phương. Đêm 26, các đồng chí Nông Văn Cún, Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức họp bàn với đảng viên chi bộ xã Hưng Vũ, trong đó có đồng chí Dương Công Bình, đồng chí Hoàng Văn Hán. Mọi người đều nhận định thời cơ phát động quần chúng cách mạng nổi dậy khởi nghĩa đã đến. Sáng ngày 27, cuộc họp do chi bộ triệu tập thống nhất các chủ trương và chính thức kêu gọi nhân dân tiến hành khởi nghĩa. Cũng trong khoảng thời gian đó, nhân dân đã tự tổ chức việc thu nhặt và tước khí giới của các toán tàn quân địch để tự vũ trang. Ban chỉ huy khởi nghĩa nhanh chóng được thành lập do đồng chí Hoàng Văn Hán làm chỉ huy trưởng. Mục tiêu đầu tiên là đồn Mỏ Nhài, ở châu lỵ Bắc Sơn.

Ngày 27-9-1940, tiếng súng Bắc Sơn bùng nổ. Lực lượng tự vệ phục kích một toán quân Pháp ở đèo Canh Tiến, giết bảy lính và một tên quan ba, thu súng ống. Đúng 20 giờ 30 phút, ngày 27-9-1940, dưới sự chỉ đạo của chi bộ Cộng sản xã Hưng Vũ, với hai mươi khẩu súng trường, một số súng kíp, ba mươi hòm đạn do đồng bào Đàng Lang mò được đem ủng hộ, giáo mác, gậy gộc, đội tự vệ cùng quần chúng gồm các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Hoa và Kinh thuộc các xã Tam Hoa, Hưng Vũ, Trấn Yên, Ngư Viễn cùng nhau khua chiêng, gõ mõ, kéo về châu lỵ Bắc Sơn, tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Với khí thế hùng dũng, mọi người ào ạt xông lên, vừa nổ súng vừa kêu gọi binh lính trong đồn về theo cách mạng. Tri châu Hoàng Văn Sĩ cùng một cai đội và hai mươi hai lính với đầy đủ súng ống hoảng sợ chạy tháo thân qua đèo Canh Dàn sang Bằng Mạc. Nghĩa quân chiếm được đồn, thu mười khẩu súng trường, sáu súng kíp, hai gánh đạn, một máy chữ cùng toàn bộ sổ sách, bằng, triện. Tin vui thắng trận lan nhanh, hàng nghìn đồng bào già trẻ đốt đuốc kéo đến đồn Mỏ Nhài reo hò náo động cả một vùng đồi núi. Đồng chí Hoàng Văn Hán thay mặt ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân và phong kiến tay sai, và xác định trật tự an ninh trong các thôn xóm từ nay sẽ do nhân dân tự đảm nhiệm.


Lễ thành lập Đội du kích Bắc Sơn – 16/10/1940


Ngày 16-10-1940, tại xã Vũ Lăng, Đội du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập do đồng chí Trần Đăng Ninh làm chỉ huy trưởng. Như vậy Đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang đầu tiên của cách mạng Việt Nam do đảng cộng sản lãnh đạo. Sau khi nghe báo cáo, Trung ương quyết định Đội sẽ chuyển hướng từ hoạt động quân sự sang chính trị, gây cơ sở, thành lập căn cứ du kích lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm (Võ Nhai thuộc tỉnh Thái Nguyên).

Ngày 14-2-1941, tại đầu nguồn con suối Khuổi Nọi, trong cánh rừng Tam Tấu, xã Vũ Lễ, cách con đường 1B hơn 3 km, đồng chí Hoàng Văn Thụ phổ biến quyết định của Trung ương về việc tổ chức lại Đội du kích Bắc Sơn thành lập Đội Cứu quốc quân I.

Căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai rồi mở rộng hoạt động đến huyện Phú Lương, Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn Dương (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc Cạn)..., góp phần quan trọng trong việc xây dựng các khu giải phóng trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.


(Trích bài của Mai Tùng, trang
baolangson.vn)