Hoạn Thư khôn nhưng mà không ác, nên đọc “tờ” Kiều “trình” lên xong, “dường có ngẩn ngơ chút tình”. Hoạn Thư lại có nết hay là công nhận giá trị của người khác: “Ví chăng có số giàu sang / Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”. Người tài sắc thế, tình cảm thế, thế mà “bể trần chìm nổi thuyền quyên”, khiến ai chẳng “thương nỗi vô duyên lạ đời!”. Làm sao bây giờ đây? Chồng thì không thể chia được… À, Kiều có ngỏ ý “rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không”. Vậy “sẵn Quan Âm các vườn ta”, “cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh”. Không biết “hoa nô” ấy tên gì, chỉ biết chùa vườn nhà họ Hoạn bỗng dưng có một ni Trạc Tuyền “ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương”... Đi tu mà còn “gần rừng tía” quá thế này, sợ khó “xa bụi hồng”. Thực ra, Quan Âm các bất quá một tầng địa ngục cao hơn, mức hành hạ thấp hơn, nhưng vẫn là địa ngục. Khi nào dịp đến, phải thoát ra khỏi ngay, bạc phận ơi.

(Thu Tứ)



Nguyễn Du, Truyện Kiều (câu 1885-1934)



Sớm khuya hầu hạ đài doanh, (1885)
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
“Phải khi mình lại xót xa nỗi mình”.
Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:
“Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!” (1890)
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Ðánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
Cúi đầu quỳ trước sân hoa, (1895)
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: “Tài nên trọng mà tình nên thương! (1900)
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!”.
Sinh rằng: “Thật có như lời, (1905)
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa”.
Tiểu thư rằng: “Ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không. (1910)
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan Âm các vườn ta,
Có cây trăm thước có hoa bốn mùa.
Có cổ thụ có sơn hồ, (1915)
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh”.
Tâng tâng trời mới bình minh,
Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lễ thường.
Ðưa nàng đến trước Phật đường,
Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia. (1920)
Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Xuân Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
Nàng từ lánh gót vườn hoa, (1925)
Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong?
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương. (1930)
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sòng từ trở màu thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.


(
Truyện Kiều, nxb. Ðại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1973)