“Cao Xuân Huy nghĩ về triết”




Trong hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, Đào Duy Anh gọi Cao Xuân Huy là “nhà Đạo học của thế kỷ 20”.

Cao Xuân Huy chuyên trị triết Đông, nhưng cũng rất am tường triết Tây. Đối chiếu với cái tương phản vẫn là một cách giúp ta hiểu chính mình sâu sắc hơn.

Sau đây là một số phát biểu của Cao Xuân Huy, hầu hết trong Tư tưởng phương Đông - Gợi những điểm nhìn tham chiếu.

*

“Cái sinh khí được thêm vào những yếu tố khoáng vật để tạo thành sinh vật không phải một thực chất do khoáng vật sinh ra mà là một khả năng đã có sẵn ở trong Toàn thể, trong Bản thể (...) Nhìn theo quan điểm chủ toàn thì từ khoáng vật đến sinh vật không có một sự nhảy vọt, một sự biến chất nào cả; giữa khoáng vật và sinh vật, không có một sự dị biệt về tính chất mà chỉ có một sự dị biệt về trình độ” (tr. 165, 172).

Giữa “hạt bụi nào” với “thân tôi” không có “một sự biến chất nào cả”. Chẳng qua Trịnh Công Sơn “trình độ” hơn bụi. Trình độ mấy rút cuộc cũng phải “về làm...”. Và lúc nào cũng có hằng hà sa số hạt bụi đang “hóa kiếp” thành hằng hà sa số “tôi”... Dịch mới vui.

“Với phương thức chủ toàn, tư tưởng xuất phát từ toàn thể để đi đến bộ phận (…) toàn thể quyết định bộ phận; toàn thể không phải chỉ là tổng số của bộ phận, nghĩa là các bộ phận cộng lại không nói hết được cái nội dung của toàn thể - đặc tính của một bộ phận bị quyết định bởi quan hệ của nó đối với toàn thể và đối với các bộ phận khác (...) Phương thức chủ toàn của tư tưởng có tính hữu cơ, năng động, liên tục (...)

Phương thức chủ biệt của tư tưởng xuất phát từ bộ phận để đi đến toàn thể (…) bộ phận quyết định toàn thể, toàn thể là do các bộ phận ghép lại mà thành, toàn thể chỉ là tổng số của các bộ phận (...) Phương thức chủ biệt của tư tưởng có tính cơ giới, cố định, gián đoạn”
(tr. 83, 84).

Thử nghĩ về đạo học và khoa học.

Cùng lấy vũ trụ làm đối tượng, nhưng hai đằng quan tâm hoàn toàn khác nhau.

Đạo học nhằm “ngộ” bản chất của vũ trụ. Khoa học nhằm hiểu hết các hiện tượng trong vũ trụ.

Tưởng tượng vũ trụ như một cái gì đó. Bản chất của nó tức là nó là cái gì. Ta đang ở bên trong nó, làm sao biết được nó là cái gì. Nếu ta nhảy được ra ngoài mà ngắm, có thể sẽ thấy nó là, chẳng hạn, một cái đồng hồ! “Ngộ” tức là cái nhảy đó. Vấn đề là, thực ra, có ai nhảy được không?

Cái gì đó chứa vô số hiện tượng. Khoa học nghiên cứu hết hiện tượng này đến hiện tượng khác, khám phá ra hết luật tự nhiên này đến luật tự nhiên khác, thấy luật sau bao trùm luật trước, hy vọng rồi sẽ khám phá được cái luật cuối cùng. Vấn đề là có thể có nhiều đến vô số “tầng lớp” luật, nên không bao giờ “lên” được tới cái “lớp” cuối cùng.

“Đi đến”…

Nếu có người nhảy được ra ngoài “đồng hồ”, biết nó là “đồng hồ”, người ấy không phải vì thế mà biết luôn cách vận hành của cỗ máy bên trong. Không phải là “ngộ” được “đạo” rồi thì sẽ tự nhiên biết luật nọ luật kia trong vũ trụ.

Nếu có người khám phá được luật tự nhiên cuối cùng, hiểu trọn vẹn cách vận hành của vũ trụ, người ấy không phải vì thế mà biết luôn vũ trụ thực ra là cái gì. Thạo hết máy móc của nó rồi mà cứ ở bên trong thì không thể nào biết được nó là cái “đồng hồ”.

Nhưng thiền giả không đi tìm luật tự nhiên và nhà khoa học không đi tìm chân như.

“Các hiện tượng đều là những trạng thái của bản thể, không có vấn đề quan hệ nhân quả giữa hai hiện tượng nhất định mà chỉ có vấn đề quy luật xuất hiện của một trạng thái nào đó, sau một trạng thái nào đó” (tr.113).

Thử đừng phân biệt thời gian với không gian. Hình dung một “cục” không gian - thời gian. Xắt cục ấy thành vô số lát. Mỗi lát là thực tại ở một thời điểm…

“Ðạo là bản thể của vũ trụ (…) Thường hữu nghĩa là (…) tồn tại một cách hằng thường, vĩnh cửu, không bao giờ mất (…) Thường vô nghĩa là (…) tồn tại mà không (bao giờ) có hình thể (…) sinh ra trời đất vạn vật mà không thành trời đất vạn vật (…) Đạo (…) là thường vô cho nên (…) lại là thường hữu” (tr. 419).

Đạo không có hình thể thì làm sao biết là “có”? Thử nghĩ nếu không có Đạo thì trời đất vạn vật ở đâu ra? Nếu không có biển, làm sao có sóng?!

“Phàm vật gì cũng có thể chất của nó và đức tính (hay bản tính) của nó. Chẳng hạn, nước thì thể chất của nó là H2O, đức tính hay bản tính của nó là (…) lỏng (…) loãng (…) Ðức tính của nước phát ra ngoài thành tác dụng, như thấm vào đất nuôi cây cối, bốc lên thành mây mưa v.v. (…) Ðạo là bản thể của vũ trụ; mà Ðức là bản tính, năng động tính, và tác dụng của Ðạo” (tr. 420).

Chúng tôi cho rằng Đức là “cái sức đẩy nội tại đằng sau mỗi vòng sinh diệt. Ðức khiến Ðạo sinh vạn vật, rồi Ðức đẩy vật theo hướng ly căn, khiến vật mỗi lúc mỗi thêm xa Ðạo. Nhưng đến lúc nào đấy, Ðức sẽ bắt đầu đẩy vật theo hướng ngược lại để vật qui căn, về Ðạo”.(1)

“Tống Nho đã (...) gán cho Khổng Tử những tư tưởng triết học của Lão Tử. Ngoài ra, Tống Nho lại còn vay mượn cho Nho giáo nhiều khái niệm (...) của Phật giáo (...) cái mà người ta gọi là (…) Tân Nho giáo này thật ra chỉ là một hỗn hợp phẩm giữa Lão, Phật và Khổng” (tr. 179).

Tại sao ra đời cái “hỗn hợp phẩm”? Thiết tưởng nó là kết quả của sự kiện Hoa tộc đã liên tục bành trướng về phía nam. Phía đó không phải đất trống, mà là địa bàn của Việt tộc. Vì môi trường tự nhiên bắc nam khác nhau, Hoa tộc tính tình rất thực tế, trong khi Việt tộc “mơ màng” hơn nhiều. Hoa xuống ở đất mới chiếm, một phần do tính tình bị “thủy thổ” làm thay đổi, phần nữa do không diệt chủng, bài trừ văn hóa bản địa, mà hợp chủng, hấp thu văn hóa, nên dần dần người Tàu thành ra một giống người lai, cả về máu huyết lẫn văn hóa, với những nét gốc Hoa chủ động hơn những nét gốc Việt. Bành trướng bắt đầu từ lâu trước thời Khổng Tử. Đến Khổng thì người Tàu không còn cực đoan như hồi đời Thương. Vì có ảnh hưởng Việt nên Nho giáo “trung dung”. Nhưng trung dung đây là lý thuyết thôi. Trên thực tế, Nho giáo Trung quốc ít nhiều thiên về “cực”.

Tư tưởng Lão Tử có gốc Việt tộc. Triết lý Phật giáo có gốc Dravidian. Lâu lắm, Lão và Phật mới nhập được vào Nho giáo Trung quốc. Nhưng cũng chỉ là vào lý thuyết thôi.

“Con người phương Tây càng ngày càng bị giam hãm trong ý thức của mình” (tr. 148).

Chúng tôi thấy câu chuyện mình tự giam mình nó như thế này. Người Tây phương bây giờ đặt trọn niềm tin vào khoa học, đồng hóa Thượng Đế với “Luật Tự Nhiên Cuối Cùng”. Cuộc hành trình đi tìm Luật có đặc điểm là dọc đường người đi liên tục đạt những tiến bộ vật chất có giá trị củng cố niềm tin. Càng đi càng tin, càng tin lại càng cố đi, cứ thế “buồng giam” ngày càng chật, rút cuộc sẽ chỉ còn chứa được đúng một cái máy vi tính hữu cơ quen gọi là “người”! À, cũng nhờ những tiến bộ vật chất ngoạn mục, người Tây phương coi như đã lôi kéo được toàn thể nhân loại vào “ở tù” chung với họ rồi.

“Theo thầy tôi, mỹ cảm là sự cảm thụ trực giác về sự hài hòa giữa tính nhất thể và tính đa dạng, giữa tính đồng nhất và tính dị biệt, giữa động và tĩnh, giữa sự hợp nhất và sự phân hóa (...) niềm khát khao da diết của con người vươn tới cái đẹp chính là nỗi nhớ nhung (...) không phút nào nguôi đối với sự hài hòa nguyên thủy”.(3)

Cái đẹp không thể tính toán mà làm ra, mà thấy được. Loài người ngày càng say sưa tính toán, say đến nỗi vớ được cái gì là “tính” cái ấy, kể cả cái đẹp. Lý luận về nó, trời ôi! Xin hãy hướng cái óc khoa học về “Luật Cuối Cùng” mà để yên cho “sự hài hòa nguyên thủy”.



Thu Tứ
Viết tháng 4-2014
Sửa mới nhất tháng 3-2024
















_________
(1) Xem “Một cách hiểu Đức” của TT.
(2) Cao Xuân Hạo,
Tiếng Việt văn Việt người Việt, nxb. Trẻ, 2001.