Đỗ Đình Tuân, “Thuyền mủng”




Người làng tôi chuyên đẩy thuyền bằng sào. Không dùng mái chèo như người làng Chí Linh gần sông lớn. Có lẽ vì nước nông, sông tĩnh.

Cái thuyền mủng nào cũng phải có một cây sào, làm bằng một cây tre hóp đá dài độ ba, bốn mét. Cây sào này vừa là “động cơ” lại vừa là “bánh lái”. Khi chở thuyền, người ta đứng trên sạp lái, dùng hai tay nhịp nhàng kéo sào lên. Khi chân sào đã khỏi mặt nước, thì lại nhấc đứng cây sào dậy mà cắm xuống một điểm ngay dưới đít thuyền. Lại dùng hai tay lần sào mà đẩy thuyền đi. Khi bàn tay đã lần đến điểm mút đầu sào thì nhún mạnh thêm một cái nữa. Con thuyền sẽ dồ sóng mà lao về phía trước. Người đẩy thuyền thạo, thường biết kết hợp các động tác “cắm”, “đẩy”, “nhún” với “lái” vào làm một. Cho nên trông họ thường nhàn nhã, khoan thai mà con thuyền cứ đi theo “sự lãnh đạo” của họ. Bởi ngay từ động tác “cắm sào” người ta cũng đã có ý “lái” rồi. Rồi động tác “đẩy”, động tác “nhún” đều lồng ý “lái” vào trong ấy cả. Cho nên con thuyền đi tự do mà ngoan ngoãn. Ngược lại người lái thuyền tồi, chưa biết lái thuyền thì chỉ biết “cắm” là “cắm”, “đẩy” là “đẩy”, “nhún” là “nhún”... chứ không biết kết hợp và lồng cái ý “lái” vào. Cho nên họ cắm được cắm hỏng. Có khi cắm đứng sào quá, chặt chân sào quá, không đẩy đi được nữa. Thế là cái sào đẩy thuyền lại thành ra cái cọc buộc con thuyền lại. Nếu họ cũng lại cứ đẩy, cứ nhún nữa thì sào sẽ đi đằng sào, thuyền sẽ đi đằng thuyền... Con thuyền sẽ mất phương hướng, quay lô lô giữa dòng, vùng vằng không chịu đi cho. Nhiều khi “người cầm lái” còn ngã ùm cả xuống sông nữa kia.

Nhưng thuyền mủng ở làng tôi cũng ít được dùng vào công việc chính của làng là làm ruộng. Vì vụ gặt chiêm làm mùa thì nước chưa to mà đến vụ gặt mùa thì nước lại cũng đã cạn rồi. Chỉ có những gia đình có ruộng ở đồng Chiêm, đồng Dành, giáp ngọn con sông Đào, người ta mới dùng thuyền chở lúa về làng. Còn đa phần vẫn gánh bộ, không lích kích phải bốc lên xếp xuống. Rụng lúa. Rốt cục thuyền mủng chủ yếu chỉ để cho bọn trẻ con chúng tôi đi đưa cơm cho thợ cày ở những cánh đồng xa, hoặc bồng bềnh đẩy xuống mé sông Gốm, đồng Gốm để kiếm rau lợn. Bởi ở đồng Gốm có một thứ rong dùng nấu cám rất sánh và lợn rất hay ăn. Làng tôi gọi cây rong đó là cây “rau vậy”, nhưng cũng có làng lại gọi nó là cây rong “áo tơi”.

Đồng làng Gốm thấp hơn cánh “đồng dưới” làng tôi một cấp, nên nước cũng ngập sâu hơn một cấp. Độ ba bốn mươi phân gì đấy. Những buổi trưa hay chiều mùa hè, nắng chói chang, nước đồng trong văn vắt. Chúng tôi cứ cho thuyền lượn lờ đi trên đồng, quan sát dưới đáy ruộng. Hễ thấy khu vực nào có cây rau vậy to và dày thì mới cắm sào đỗ thuyền lại. Những cây rau vậy to trông nó rườm rà như một cái nơm để ngửa. Những con cá “xí cờ” thập thò bơi quanh hóng mát. Cũng có khi là mấy chú cá “lầm đất”, nghe tiếng động thuyền thì rối rít chúi chạy, loáng nhoáng hiện những cái thân, cái bụng lấp lánh trắng ở dưới gốc. Chúng tôi phải lột áo, tụt quần, vứt ở trên sạp lái. Lội xuống. Ngụp. Dùng tay cầm tận sát gốc cây rau vậy. Nhổ. Rũ cho sạch đất bùn bám ở rễ, rồi xếp chúng vào thuyền. Đủ định lượng thì chúng tôi lại bồng bềnh đẩy thuyền về cập bến làng Riêng.

Nhưng người lớn làng tôi chuẩn bị thuyền là nhằm những mục đích quan trọng hơn nhiều. Đó là cái phao cứu sinh cho cả một gia đình. Bởi vì ở vùng tôi, cái thảm họa nước to, do mưa lớn hay vỡ bối, vỡ đê luôn là một khả năng treo lơ lửng ở trên đầu.

Nhà giầu nào cũng thường xây một gian kho có nền rất cao... Ít ra thì cũng chuẩn bị sẵn cây que bắc lấy một gian gác để nếu gặp “tình trạng khẩn cấp” thì để thóc lúa lên gian gác ấy. Nhưng để chạy người thì vẫn phải có một con thuyền mủng. Ngày còn rất bé, tôi láng máng nhớ có một lần chạy nước to như thế. Ngày ấy tôi hãy còn mẹ. Nghe người làng kêu “Ới làng nước ơi, vỡ bối rồi!”. Tôi thấy mẹ tôi cuống quýt dựng tôi dậy. Bà đặt tôi đứng trên cái phản ở giữa nhà, vào buồng vơ lấy cái áo mặc thêm cho tôi. Vừa mới đóng xong mấy cái cúc thì nước đã ngập đến hè, rồi ngập vào nền nhà. Mãi đến khi nước gần lên đến chỗ chân tôi đứng thì bố tôi mới kéo đến một con thuyền mủng. Mẹ tôi bế tôi lên thuyền và cả nhà chạy lên Bãi Đá. Mấy ngày sau, bố cho tôi về thăm nhà, tôi thấy nước ngập đến tận giọt gianh. Sóng cứ vỗ dập dềnh liếm vào mái rạ. Căn nhà chỉ còn như một cái nón vuông kéo dài nằm úp trên mặt nước.

Sau trận càn đầu tiên của giặc Pháp, làng tôi bị đốt hầu hết nhà cửa. Nhà tôi cũng bị đốt hết cả: năm gian nhà gỗ xoan kẻ truyền, chồng chóp, gian bếp rồi tiếp đến ba gian nhà ngang làm nhà ăn và để cối xay, cối giã, khu chuồng trâu, chuồng lợn... Người làng tôi hốt hoảng mà không biết chạy đâu. Họ bèn dắt díu nhau bỏ làng chạy lên ngọn con sông Đào. Mỗi nhà đào một cái “tăng-xê” trên bờ con sông Đào, úp thuyền lên trên làm mái che. Cửa hướng ra sông Đào thì tạm che bằng phên nứa, phên gianh; vừa làm hầm trú ẩn lại vừa làm nhà ở. Bờ sông Đào bỗng thành một dãy “phố tăng-xê”, nối liền nhau như “mủng úp” (...)

Nhưng ở giữa cánh đồng không mông quạnh, chẳng có tre pheo gì che chắn, lại nằm dưới lòng đất ẩm lạnh, trẻ con người già không chịu được. Thế là thấy yên yên, người làng tôi lại trở về làng (...)

Bệnh của mẹ tôi đã bắt đầu nặng (...) Một buổi trưa đầu hè nắng gắt. Bố tôi đang làm rạ lợp nhà ở ngoài sân. Trong nhà, cô Lý Tường sang thăm, ngồi trên giường nói chuyện với mẹ tôi. Đang giang giang câu chuyện thì bỗng cô Lý Tường gọi giật giọng “Bác ơi! Bác ơi! Bác làm sao thế?”. Nghe tiếng gọi khác lạ, bố tôi vội hớt hải chạy vào. Cô Oanh bên hàng xóm cũng vội chạy sang. Chỉ một loáng sau, người đã đến chật nhà. Còn tôi, trước đấy vẫn tha thẩn chơi trong nhà, nhưng lúc này tôi lại đến nằm phục thị bên đầu giường mẹ. Tôi vẫn chưa có cảm giác rằng mẹ tôi đã chết, nên cứ chằm chằm nhìn vào mặt mẹ. Quả nhiên, mẹ tôi lại mở mắt ra thật. Mở rất to, nhìn tôi một lúc lâu, dưới hố mắt ứa ra một giọt lệ rồi mới thấy từ từ khép lại... Chắc mẹ tôi thương tôi lắm, nên đã ra đi rồi mà vẫn không đành lòng, còn nán lại nhìn tôi. Sau này nghe bố tôi kể lại, những ngày sắp mất, mẹ tôi cứ dặn đi dặn lại bố tôi hai điều: Một là anh phải gắng nuôi con cho nó thành người; hai là tôi còn bố già, anh phải gửi sang đấy cho tôi một con nghé đực, nhờ bác cả nuôi hộ, khi nào ông cụ mất thì dùng con trâu ấy lo việc ma cho ông cụ, xem như đó là phần đóng góp của tôi (...)

Tuổi thơ tôi đã phải sống rất bơ vơ. Giặc đốt hết nhà cửa, vợ ốm đau dài ngày, rồi người chết, của hết, bố tôi rơi vào hoàn cảnh hoàn toàn trắng tay. Ông cụ phải chạy chợ lần hồi kiếm ăn từng bữa. Hôm nào cũng thế, cứ độ ba bốn giờ sáng là ông cụ đã trở dậy, nổi lửa nấu cơm. Ông cụ nắm làm hai nắm: một nắm to ông cụ mang đi ăn đường và một nắm con phần tôi ở nhà ăn bữa trưa. Ông cụ thường mua muối ở chợ Phả Lại đem vào chợ Bến Tắm bán, rồi lại mua chè tươi và các hàng lâm sản ở chợ Bến Tắm đem về bán ở chợ Phả Lại. Những hôm có phiên chợ Bến Tắm thì ông cụ phải đi sớm lắm. Tôi phải ở nhà một mình ngay từ lúc trời còn chưa sáng. Đầu tiên cũng sợ, sau quen dần. Tôi cứ lủi thủi một mình ngồi ở đầu hè bạn với vầng trăng gà gáy cũng lạnh lẽo, cô đơn một mình giữa bầu trời đã vãn hết sao. Cho đến đến tận bây giờ, cứ mỗi lần gặp lại vầng trăng gà gáy là tôi lại nhớ lại cái đoạn đời ấu thơ côi cút này.

Có một lần, đang đêm tôi thức dậy, thấy ánh lửa chập chờn, tôi nghĩ là bố tôi đang nấu cơm ở dưới bếp như mọi đêm. Tôi gọi “Bố ơi... bố!”. Nhưng không có tiếng bố tôi trả lời. Tôi bèn trở dậy chạy xuống bếp. Cũng không thấy bố tôi đâu. Mà quay ra thì thấy phía giữa làng lửa cháy rừng rực, tiếng nổ đôm đốp, tro than bắn lên tung tóe cả. Tôi hoảng quá, khóc toáng lên, chạy ra sân, gào bố ầm ĩ. Vẫn không thấy bố tôi đâu cả. Mà lửa cháy thì càng to và tiếng nổ lại càng dữ. Nhưng xóm làng thì vắng lặng, hoàn toàn không thấy có tiếng người. Một thứ vắng lạnh nghe ghê ghê rờn rợn. Tôi càng hoảng sợ, cứ vừa khóc vừa gọi, vừa cuống quýt chạy quanh tìm bố. Rồi tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ se sẽ gọi “Tuân ơi Tuân, ra đây chị bế”. Nhưng trong cơn hoảng loạn, tôi không xác định được tiếng gọi ấy phát ra từ hướng nào. Nên tôi lại cuống quýt chạy ra cổng. Người phụ nữ vội vàng chạy vụt ra, ôm chặt lấy tôi. Chị bịt mồm tôi lại và nói sẽ vào tai tôi “Tây đấy! để chị bế đi trốn!”. Bây giờ thì tôi nhận ra đó là chị Khuông, con cô Cả Luyến. Tôi im bặt ngay và ôm chầm lấy chị. Chị bế tôi đi lẻn phía vườn sau (...)

Tờ mờ sáng hôm sau, khi giặc đã rút đi, mọi người ấn trốn mới tìm về rì rầm kể với nhau về chuyện đêm qua. Thì ra làng tôi họp mít-tinh trong sân nhà ông Ký Đính. Còn đang hát quốc ca thì có tin báo “Tây đấy!”. Thế là mọi người bỏ chạy tán loạn. Bố tôi không cả kịp chạy qua nhà đón tôi. Nhưng khi đã chạy ra ngoài đồng, ngồi ẩn trong ruộng lúa, nhìn về làng thấy ngọn lửa bốc cao, bấy giờ ông cụ mới bồn chồn lo “nó mà đốt ra đến xóm đình thì thằng bé chết cháy”.

Sau lần chết hụt ấy, đàn ông làng tôi không dám ngủ đêm trong làng nữa. Cứ cơm tối xong, là lại ôm chăn, ôm chiếu xuống thuyền, bồng bềnh ra ngủ rải rác ngoài đồng xa. Cố nhiên là bố tôi phải mang cả tôi đi theo. Cứ hai ba người lại chọn một đống để cùng ngủ cho vui. Họ thường trải chiếu lên cỏ, còn trên thì đắp chăn, đắp màn để che sương. Vì đống thường không bằng phẳng lại có một lớp cỏ, cho nên cái cảm giác nằm trên đống ngủ cũng bồng bềnh như nằm trên sóng vậy.


(Lược trích “Lan man chuyện làng tôi” của Đỗ Đình Tuân đăng trên trang
chimviet.free.fr)