Chồng lên ngựa về với gái, vợ lập tức lên xe về nhà mẹ đẻ “thưa hết mọi tình” và rằng mình chẳng thèm “ngứa ghẻ hờn ghen” mà chỉ muốn thi hành “mưu cao vốn đã rắp ranh” cho trước “bõ ghét những người” sau cười bể bụng. “Phu nhân khen chước rất mầu”, và thế là... Kiều nào hay sét sắp đánh, chỉ biết ngày ngày sờ “tóc thề đã chấm ngang vai”, nhớ “nào lời non nước nào lời sắt son”, băn khoăn “sắn bìm chút phận cỏn con / khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?”... Cũng gần đến ngày chàng về rồi đây, “đêm thu gió lọt song đào / nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời / nén hương đến trước Phật đài / nỗi lòng khấn khứa...”. Trời ơi, sao khấn Bụt mà “ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra” thế này! Mà cành dương cam lộ đâu chẳng thấy, lại “đầy sân gươm tuốt sáng lòa”!... Tưởng tượng Thúc Sinh “bước vào chốn cũ lầu thơ” thấy “tro than một đống nắng mưa bốn tường”! “Trúc” về đinh ninh “mai trúc lại vầy”, nào ngờ “vĩnh quyết là ngày đưa nhau!”... “Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau”. Đau quá, phải hỏi “thầy” mới được. Nhưng thầy “nói lạ” lắm, chắc “chẳng qua đồng cốt quàng xiên” chứ chẳng lẽ mình sẽ được “gặp tiên” lần nữa hay sao? Thầy nói đúng đó, “thân này” ơi. Và đau “vĩnh quyết” mới chỉ là một lối, còn phải đau thêm lối nữa lạ kỳ khôn tả đó, Đệ Nhất Sợ Vợ ơi!

(Thu Tứ)



Nguyễn Du, Truyện Kiều (câu 1605-1704)



Roi câu vừa gióng dặm trường, (1605)
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh,
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: “Ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình! (1610)
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâm Truy đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, (1615)
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau!” (1620)
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển Ưng, lại chọn một bầy côn quang.
Dặn dò hết các mọi đường, (1625)
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Ðường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng dâu đã xế ngang đầu,
Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi. (1630)
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son?
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Thân sao nhiều nỗi bất bằng? (1635)
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Ðêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân... (1640)
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra!
Ðầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
Thuốc mê đâu đã tưới vào, (1645)
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
Ðem vào để đó lộn sòng ai hay. (1650)
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
Tớ thầy chạy thẳng đến nơi, (1655)
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng. (1660)
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
Thúc ông sùi sụt ngắn dài, (1665)
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. (1670)
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Hỡi ôi! nói hết sự duyên, (1675)
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc than:
“Con người thế ấy thác oan thế này!
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! (1680)
Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,
Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây.”
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
Trên tam đảo dưới cửu tuyền, (1685)
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Ðạo nhân phục trước tĩnh đàn,
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. (1690)
Trở về minh bạch nói tường:
“Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
Người này nặng nghiệp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
Mệnh cung đang mắc nạn to, (1695)
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay!”
Nghe lời nói lạ dường này,
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin! (1700)
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!


(
Truyện Kiều, nxb. Ðại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1973)