“Phân biệt Đông, Tây” (2)




Ðể thấy văn hóa Ðông, Tây trái ngược, chỉ cần vận dụng tai mắt chút đỉnh.

Thử lắng cái tiếng chuông. Ở Ðông phương, người ta lấy chày nện vào chuông rỗng. Ở Tây phương, người ta treo vật giữa lòng chuông rồi lắc cho vật va chạm vào chuông. Tiếng chuông Ðông trầm lắng, tiếng chuông Tây rộn ràng.

Thử nhìn cái cách chơi nước. Ở Ðông phương, người ta chơi đào ao thả sen hoặc đào suối cho nước chảy róc rách. Ở Tây phương, người ta chơi xây hồ có nước phun. Nước dưới ao đào suối đào chẳng khác nước ngoài tự nhiên, nước trong hồ phun lên là ngược với tự nhiên điển hình.

Thử nhìn cái cách chơi cây. Cây cảnh ở Ðông phương được người trồng uốn nắn cho có dáng giống như cây thật, hoặc cho giống thú giống chim. Cây trong vườn ở Tây phương lại được chủ vườn cắt xén thành hình khối, cây mang dáng hộp!

Thử ngắm mặt mũi, điệu bộ một người đang nói. Khi nói, người Ðông phương giữ vẻ mặt bình thường và không múa tay. Khi nói, người Tây phương vận dụng cả mặt mũi lẫn tay!

*

Cái chuông cái nước cái cây cái dáng nói, chúng nói lên nhiều về “cái người” đấy.

Tiếng chuông trầm lắng là của kẻ ưa tĩnh; tiếng chuông rộn ràng là của người hiếu động. Chơi nước đứng nước chảy là ưa chan hòa với tự nhiên; chơi nước phun là thích chống lại tự nhiên. Chơi cây giống cây giống thú giống chim cũng là ưa chan hòa với tự nhiên; chơi cây giống hộp cũng là thích chống lại tự nhiên.

Dáng nói điềm đạm là do người nói xem mình là một phần gắn bó của tập thể; dáng nói “hùng hồn” là do người nói xem mình biệt lập. Một đằng lấy việc giữ cho được mối quan hệ tốt đẹp với tất cả xung quanh làm quan trọng nhất. Một đằng lấy việc phát huy chính mình làm đầu.

*

Thái độ chan hòa với tự nhiên và gắn bó với tất cả xung quanh của người Ðông phương tương ứng với một quan niệm triết lý. Đó là cái nhận thức rằng “tất cả là một”.

Trong triết nhất thể không có đấng Tối Cao. Phật chỉ là trạng thái tĩnh của tâm, hễ tĩnh được tâm (không dễ chút nào!) thì hóa Phật. Ðạo (trong tư tưởng Lão) hóa ra vạn vật, vạn vật biến hóa lung tung nhưng rút cuộc sẽ qui căn mà hóa trở lại thành Ðạo. Trong triết nhất thể “vạn sự vô thường”, tức không có cái gì bền: tất cả đều đang hoặc từ động hóa tĩnh hoặc từ tĩnh hóa động hoặc từ Ðạo hóa vật hoặc từ vật hóa Ðạo!

Thái độ chống đối tự nhiên và cái “tôi” biệt lập của người Tây phương cũng tương ứng với một quan niệm triết lý. Đó là sự phân biệt Thượng Ðế - vạn vật.

Trong triết nhị nguyên có một Thượng Ðế toàn năng và vĩnh cửu, hoàn toàn phân biệt với vạn vật vốn do Người tạo ra. Mỗi “vật” lại hoàn toàn phân biệt với từng “vật” khác.(1)

*

Triết nhất thể tương ứng với quan niệm cái tốt tương đối.

Vì không có đấng Tối Cao nên không có định nghĩa cái tốt truyền xuống từ trên cao. Ở Ðông phương, việc làm tốt hay xấu là căn cứ vào tác động của nó đối với xung quanh. Giúp tập thể bền vững là tốt, ngược lại là xấu.

Triết nhị nguyên tương ứng với quan niệm cái tốt tuyệt đối.

Thế nào là tốt, cái ấy do Thượng Ðế qui định. Người định, xong Người truyền, bằng cách nào đó.

*

Con người ta nói, tức là diễn cái nhìn của mình ra thành lời.

Nhìn sao, nói vậy. Nhìn nhất thể, nói cũng nhất thể! Nói nhất thể thì lời nói liền lạc, gắn bó như một cơ thể. Nhìn nhị nguyên, nói cũng nhị nguyên! Nói nhị nguyên thì lời nói là một cấu trúc nhân tạo do nhiều bộ phận ráp lại. Tính nhất thể của ngữ pháp Đông phương thấy rõ nhất nơi tiếng Việt.(2) Tính nhị nguyên của ngữ pháp Tây phương có thể tìm xem nơi tiếng Anh.

Triết còn rành rành trong lối xưng hô. Vì “tất cả là một”, nên gặp nhau thì ta xưng hô như thể có quan hệ máu mủ. Vì “tôi” này không có quan hệ gì với “tôi” khác, nên họ xưng hô với nhau bằng những đại từ khái quát chỉ “ngôi”.

*

Triết ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Ở Đông phương vì mỗi người đều xem mình có quan hệ với mọi người, ta ăn ở với nhau “có tình”, do đó ít người bị bức xúc nặng đến nỗi có hành vi bạo động. Ở Tây phương vì “tôi” này không có quan hệ gì với “tôi” khác, họ đối xử với nhau thẳng thừng khiến nhiều người bị bức xúc tới mức sinh bạo động. Bạo động có hai loại. Loại thứ nhất - “bình thường” - nhắm vào người đã trực tiếp gây bức xúc. Loại thứ hai - “bất thường” - không nhắm vào ai cả, mà bừa bãi! Sở dĩ có loại thứ hai, ấy là do cá nhân bị bức xúc trầm trọng lâu ngày, dần hóa điên. Xã hội Đông phương chỉ có loại bạo động thứ nhất và có ít hơn hẳn ở Tây phương.

Triết cũng ảnh hưởng đến cách duy trì trật tự xã hội.

Ở Đông phương việc xét xử phạm nhân vừa theo lý vừa theo tình. Ở Tây phương chỉ theo lý. Lý thể hiện thành luật, luật giống như lưới, dù nhặt đến đâu vẫn đầy lỗ, khéo thì chui lọt! Trong khi tình không có “lỗ”.

*

Xưa kia cả Ðông phương lẫn Tây phương đều có vua. Nhưng vua Ðông và vua Tây không giống nhau.

Vua Ðông tuy là “con trời”, ngồi ngai chín bệ, nhưng không “quý” bằng dân. Mạnh Tử bảo: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, tức “Dân nhất, nước nhì, vua bét”. Vào thời thịnh của chế độ quân chủ chuyên chế ở Tây phương, không người dân nào dám bảo vua mình là bét! Ở Ðông phương vua cai trị nước với ý nghĩa thi hành nghĩa vụ lo lắng cho hạnh phúc của toàn dân. Ở Tây phương vua cai trị nước là sử dụng đặc quyền của kẻ mạnh nhất nước.(3)

Cùng cai trị độc tài tuyệt đối, nhưng một đằng nhân danh tất cả mọi người, một đằng nhân danh chỉ Tôi To Đùng!

*

Triết tương ứng thế nào với khuynh hướng tâm linh?

Ở Đông phương, nhân loại tìm cách cải thiện đời sống hiện tại hơn là hướng về kiếp sau. Ta khấn vái tổ tiên, Trời, Phật, thần, thánh, chủ yếu nhằm cầu xin giúp đỡ thực tế để được hạnh phúc ngay bây giờ, ngay tại chỗ đang sống.

Ở Tây phương, loài người vốn cơ bản sống để đợi lên Thiên Đàng! Khi mới bắt đầu làm khoa học, họ vẫn là chiên ngoan, xem nghiên cứu chẳng qua tò mò tìm hiểu tuyệt tác của Chúa. Nhưng từ cách nay khoảng một thế kỷ Chúa đã bị thay thế bởi Luật Cuối Cùng của tự nhiên mà họ tin cứ nghiên cứu mãi sẽ có ngày khám phá được. Trước là từng người làm cuộc hành trình dài đúng một đời đi gặp Đấng Tối Cao. Bây giờ là bao nhiêu người hành trình liên thế hệ đi tìm Luật Tối Cao. Cũng thế thôi.(4)

Ta chẳng thiết “đi” đâu cả, vì Phật ở trong ta chứ ở đâu xa mà đi!

Họ nhất định phải “đi”, vì “Chúa” ở bên ngoài họ.

*

Chiến tranh ở đâu cũng có. Nguyên nhân phổ quát là tranh giành quyền lợi vật chất. Riêng ở Tây, còn có nguyên nhân “kỳ thị”. Kỳ thị tôn giáo: ba đạo cùng gốc, mà đạo Chúa đạo Hồi xung đột ác liệt suốt từ khi Sứ giả Mô-ha-mét ra đời và sau khi nước Do Thái tái sinh ở Trung Đông thì tới phiên đạo Do Thái đạo Hồi kịch chiến! Kỳ thị ý thức hệ: Mỹ tư bản và Liên Xô cộng sản “Chiến tranh Lạnh” với nhau làm nhân loại suýt chết hết vì bom A và bom H! Kỳ thị chính thể: sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ dùng vũ lực “thay đổi chế độ” ở I-rắc...

Cũng nguyên nhân kỳ thị, ở Tây phương lại có thứ bạo động quy mô mà không phải là chiến tranh. Lịch sử Tây phương hai ngàn năm nay đầy những ví dụ hết sức đẫm máu! Xảy ra đầu tiên là việc nhà nước La-mã giết vô số tín đồ đạo Chúa (bằng nhiều cách kinh khủng). Đáng kể nhất gần đây là việc nhà nước Đức quốc xã giết sáu triệu dân Do Thái.

Ngoài sát nhân hàng loạt, kỳ thị còn có thể dẫn tới lối đối xử vô nhân đạo. Kỳ thị giai cấp từng là thảm kịch triền miên khắp Âu châu. Kỳ thị chủng tộc từng rất nặng nề ở Mỹ.

Ở Đông phương vốn không có hiện tượng kỳ thị. Ngoại lệ duy nhất là Ấn-độ: người Ấn kỳ thị bởi họ có mang dòng máu da trắng Aryan.(5)

Tại sao Đông khác Tây?

Vì ta xem “tất cả là một”, trong khi họ phân biệt và phân biệt. Hễ đã có tâm lý phân biệt thì rất dễ trở nên “cực đoan, cuồng tín, không bao dung”.(6) “Cực” luôn tìm cách tiêu diệt hay giầy xéo lên bất cứ cái gì khác nó. Nếu bên kia yếu hơn hẳn thì diệt hay giầy diễn biến “êm”, còn nếu đôi bên cùng mạnh thì chiến tranh long trời lở đất, có khi đe dọa tính mệnh của toàn thể nhân loại!



Thu Tứ
Viết năm 2005
Sửa năm 2013





















__________
(1) Xem bài “Trời Đông, Trời Tây” và bài “Nhân loại, nhân loại!” của TT.
(2) Xem bài “Tương lai ngữ pháp tiếng Việt” của TT.
(3) Trong
Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, nxb. Văn Hóa Dân Tộc, 2000, Trần Quốc Vượng bảo vua ở châu Âu cơ bản chỉ là một lãnh chúa lớn.
(4) Xem bài “Văn hóa diễn biến thế nào” của TT.
(5) Xem bài “Ấn Á, Ấn Âu” của TT.
(6) Xem Nguyễn Hiến Lê,
Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, 2001.