Nguyễn Văn Huyên nhận xét “ngay trên trống Ngọc Lũ thấy khắc tới 15 hình trống đồng H1. Đây là điều rất lý thú, nó chứng tỏ rằng trống Ngọc Lũ ra đời vào lúc những trống đồng cùng loại với nó được sử dụng tương đối rộng rãi”.

Người Đông Sơn đã đúc khoảng bao nhiêu trống đại khái như Ngọc Lũ? Cho đến nay ta chỉ mới biết có “á hậu” Hoàng Hạ. Liệu sẽ có ngày tìm thấy trống đẹp hơn cả “hoa hậu” chăng?...

Về trang trí trên quai trống, dưới đây ghi là “văn bông lúa”, còn theo Nguyễn Văn Huyên là “văn bện thừng”...
(TT)



“Trống Ngọc Lũ”







Trống Ngọc Lũ được phát hiện vào khoảng năm 1893-1894, do các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người khác đắp đê ở xã Như Trác huyện Nam Xang (Lý Nhân) hữu ngạn sông Hồng.

Khi đào ở bãi cát bồi thì thấy ở dưới độ sâu 2 mét lộ ra một vật bằng đồng rất lớn, các ông vội lấp lại, không cho chủ thầu biết, đến đêm mới kéo nhau ra đào thì thấy một trống đồng, bèn khiêng về cúng vào đình làng Ngọc Lũ. Sau 7, 8 năm một họa sĩ người Pháp đến vẽ đình, thấy trống, liền báo cho công sứ Hà Nam. Nhân có cuộc đấu xảo ngày 15-11-1902 ở Hà Nội, trống được trường Viễn Đông Bác Cổ mua lại với giá 550 đồng. Từ năm 1958 đến nay trống đồng Ngọc Lũ luôn được lưu giữ, bảo quản và giới thiệu tại hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).

Trống đồng Ngọc Lũ được xếp vào loại H1 (theo sự phân loại của học giả F. Héger người Áo năm 1902). Đây là chiếc trống có kích thước lớn, hình dáng cân đối và đặc biệt có hoa văn trang trí đẹp nhất trong số những trống Đông Sơn đã phát hiện.

Trống có lớp ten màu xanh ngả xám. Đường kính mặt 79cm, chiều cao 63cm, trọng lượng 86kg.

Trống có cấu trúc gồm mặt trống, tang trống, thân trống và chân trống.











Mặt trống chính giữa đúc nổi ngôi sao 14 cánh (...) xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình lông công. Bao quanh ngôi sao là 16 vành hoa văn: chấm nhỏ, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến, những hàng chữ ∫ gẫy khúc nối tiếp, văn răng cưa, hình người hóa trang lông chim nhảy múa, người giã gạo chày đôi, người đánh trống, nhà sàn mái cong, hươu đang đi cùng chim mỏ ngắn bay và chim mỏ dài đứng.





Tang trống (...) Phần trên có 6 vành hoa văn hình học: những đường chấm nhỏ thẳng hàng, văn răng cưa, hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song. Phần dưới là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá được thể hiện theo lối cách điệu.

Gắn giữa tang và thân trống là hai đôi quai kép đúc nổi hoa văn bông lúa, đối xứng nhau.





Thân trống hình trụ đứng (...) Phần trên của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật. Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa. Phần dưới của thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn.

Chân trống nở choãi hình nón cụt (...) không trang trí.

(...)

Trống đồng Ngọc Lũ là di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn, là biểu tượng của nền văn minh Việt cổ (...) xứng đáng được vinh danh là Bảo vật Quốc gia.



(Lược trích Dương Hà, “Giới thiệu bảo vật quốc gia – 1. Trống đồng Ngọc Lũ: hiện vật tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn”, trang
baotanglichsu.vn. Mô tả và hình ảnh trống chủ yếu lấy từ sách Những trống đồng Ðông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh do Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1975.)