- Khó tưởng tượng người xưa khắc hình thằn lằn lên mặt trống. Hẳn là hình cá sấu.

- “Giả thuyết phục dựng” hai chữ đầu tiên trong hàng chữ khắc trên trống “Phú” bắt nguồn từ địa điểm phát hiện trống. Nhưng trống hoàn toàn có thể đã ra đời ở một nơi khác rồi được đem tới đó...

- “Đứng hàng thứ 11 trong tổng số tài sản kê biên”... Tài sản của ai? Chủ nhân phú quý nào sao không bảo khắc luôn danh hiệu mình ra?
(Thu Tứ)



Nguyễn Việt, “Thêm một trống có khắc chữ”





Trống "Phú"


Phát hiện bất ngờ chiếc trống đồng cổ có minh văn

Cách đây chừng 5, 6 năm, một nông dân ở vùng chiêm trũng thuộc huyện Phú Xuyên (Hà Tây cũ) bất ngờ phát hiện một chiếc trống đồng lớn còn gần như nguyên vẹn trong một hố đào sâu trong tầng đất đen sú vẹt. Có lẽ chính nhờ tầng đất chua sú vẹt yếm khí này mà chiếc trống đã được bảo tồn nguyên vẹn, gần như mới. Nhất là màu vàng óng của đồng thau ẩn bên dưới màng patin mỏng được bảo vệ bởi một tầng nhựa cây khiến trông như mới đúc (...)

Từ năm 2002, sau khi nghiên cứu dòng chữ Hán trên vành miệng chiếc thạp đồng Đông Sơn có thể của Triệu Đà lưu tại Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva, Thụy Sĩ), tôi đặc biệt lưu tâm đến dấu tích minh văn chữ Hán sớm hay ký tự trên đồ đồng và đồ gốm cổ. Năm 2005, tôi được anh em trong Hội Cổ vật Thăng Long cho biết chiếc trống đồng cổ còn tươi màu vàng óng vừa nói trên có một hàng chữ Hán rất khó đọc ở bên trong lòng vành chân đế. Chủ nhân cũng đã từng mời một số nhà Hán Nôm đến xem hộ, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy bất kỳ thông tin nào về những chữ cổ đó. Gần đây, tôi may mắn có dịp được chiêm ngưỡng và nghiên cứu chiếc trống này (...)



Trống "Phú" - hình mặt trời giữa mặt trống


Chiếc trống đồng Đông Sơn có minh văn đầu tiên được tìm thấy ở nước ta là chiếc trống do nhân dân phát hiện ở Gò Mả Tre trong thành Cổ Loa năm 1982. Hàng minh văn trên trống này đã được một số nhà khoa học nghiên cứu và một số cách hiểu khác nhau đã được công bố.

Đây là chiếc trống đồng Đông Sơn có minh văn thứ hai được phát hiện và nghiên cứu ở nước ta (...)

(Ngoài ra, như đã từng được công bố, còn có một số thạp đồng Đông Sơn và khá nhiều đồ đồng, đồ gốm Giao Chỉ thuộc truyền thống Đông Sơn dưới thời thuộc Bắc cũng có khắc minh văn chữ Hán.)



Trống "Phú" - hình cá sấu và chim


Vài dòng giới thiệu về chiếc trống mang tên “Phú”

Trước hết, để tiện trình bày, trong bài này tôi gọi chiếc trống sẽ được mô tả là trống “Phú”. Bởi trên dòng minh văn trên trống, chính chủ nhân xưa cũng đã cho khắc một câu: “Danh viết Phú” (trống có tên là Phú) (Phú đây là giàu, như trong phú quý).

Trống “Phú” thuộc loại trống cỡ lớn, có đường kính miệng 65cm, phần tang rộng nhất tới 71cm. Chiều cao toàn thân trống là 43cm, thuộc loại trống lùn mang đậm phong cách miền núi (Tây Âu).

Ở giữa mặt trống là hình mặt trời có 12 tia cánh rộng. Ngoài các vành trang trí hình học có hai vành chính thể hiện một vành gồm bốn con thằn lằn (hay cá sấu) còn vành kia là hình tám con chim mỏ dài bay ngược chiều kim đồng hồ. Mặt trống không tràn gờ mà thu hẹp so với độ nở của tang mỗi bên 3cm.



Trống "Phú" - hình thuyền và người


Tang trống trang trí băng chính gồm 4 chiếc thuyền độc mộc đầu và đuôi thuyền cong vút. Bên trên có 6 người ngồi chèo thuyền giống nhau, một người ngồi phía sau cầm lái và một người ngồi chèo nhưng có một ngọn giáo cắm chúc mũi xuống ở hốc đầu thuyền phía trước. Tất cả đều nhìn theo hướng từ trái sang phải (ngược chiều kim đồng hồ). Không thấy bất kỳ con vật nào ở trên trời cũng như dưới nước.

Phần thân thuyền được chia thành tám ô hình chữ nhật, trong mỗi ô có hai hình người hóa trang đội mũ lông chim, mặc khố dài, mắt quay nhìn theo hướng từ trái sang phải. Người đứng phía trước tay cầm rìu, người đi sau cầm xênh, cả hai nhún theo tư thế nhảy múa. Phía trên đầu là hình một con chim lạc bay.



Trống "Phú" - hình người hóa trang đội mũ lông chim


Vành chân trống để trơn, thuộc loại thấp nhưng xòe rộng ngang bằng với chỗ phình nhất của tang trống (khoảng trên dưới 70cm). Chính ở phần xòe chân trống này, phía bên trong có dãy chữ Hán khắc rất sắc nét.

Dòng minh văn gồm 16 chữ Hán (...)

Các chữ Hán được khắc ở bên trong chân đế trống đồng thành một hàng ngang đọc chạy dọc từ trên xuống dưới, rất giống tình trạng của trống Cổ Loa cả về vị trí lẫn kiểu khắc. Hình ghép dưới đây là do tôi ghép lại từ những đoạn chụp liên hoàn dãy 16 chữ minh văn đó.



Trống "Phú" - dòng chữ khắc


Nghiên cứu minh văn thời này tôi đã từng đề xuất tên gọi cách khắc minh văn không vuông vắn, thừa thiếu nét và nhiều lỗi chính tả này là kiểu “minh văn Nam Việt” để phân biệt với cách khắc minh văn chuyên nghiệp hơn ở Trung Nguyên. Tuy nhiên, trường hợp trống Phú, nhờ độ nguyên vẹn và sắc nét, dòng minh văn này khá dễ đọc, ngoại trừ hai chữ đầu tiên. Từ chữ thứ ba trở về sau có thể đọc như sau: “TRỌNG LỤC QUÂN, NGŨ CÂN, BÁT LẠNG, DANH VIẾT PHÚ, ĐỆ VỊ THẬP NHẤT”. Tạm dịch: “trống nặng sáu quân, năm cân, tám lạng, tên gọi là Phú, thứ bậc số mười một”.

“Quân” là đơn vị đo lường cổ được dùng từ đời nhà Chu cho đến hết đời nhà Minh. Hai “bình” làm thành một quân. Một bình nặng 15 cân, như vậy một quân nặng 30 cân. Đời nhà Tần có đúc chuẩn những quả quân có quai để thống nhất đo lường toàn thiên hạ. Theo đó, mỗi quân nặng 7,75kg (một cân đời Tần – Hán là khoảng 258 gram).

Trống Phú có niên đại tương đương Tần – Hán, tức khoảng thế kỷ 3-2 trước Công nguyên, ngang với thời kỳ nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương ở Việt Nam. Nếu hiểu “quân” như ở Trung Nguyên, thì trống nặng 47,759kg. Tuy nhiên, khi phân tích đơn vị đo lường ở Lĩnh Nam, Giao Chỉ, chúng tôi cũng như một số nhà nghiên cứu Trung Hoa nhận thấy đơn vị đo lường ở Lĩnh Nam và Giao Chỉ đời Tần – Hán có sự khác biệt so với vùng Trung Nguyên. Điều đó phản ánh tính chất cát cứ, bất phục của các thủ lĩnh Bách Việt phương nam đối với chủ trương thống nhất đo lường của triều đình Tần - Hán. Vì thế, để phân định giá trị các đơn vị đo lường người khắc minh văn thường thêm vào những chữ để quy ước đơn vị đó tính theo vùng nào.



Trống "Phú" - chữ Quân


Thông thường đó là những chữ ghi địa danh hoặc tước hiệu liên quan đến chủ nhân mang tính vùng gắn với đơn vị đo lường cụ thể của đồ vật có minh văn. Đồ đồng Nam Việt thường ghi các vùng như “Phiên”, “Triết”, “Bố”… Thạp đồng Triệu Đà ghi “Long Xoang”, tức Long Xuyên, nơi ông làm huyện lệnh. Trống Cổ Loa và một số đồ đồng khác cùng thời ghi Tây Vu (cách đọc chệch của Tây Âu), tên bộ tộc lớn thuộc khối Bách Việt và cũng là tên một bộ (huyện) thời Tây Hán.

Tên đơn vị hành chính thời Đông Sơn chủ yếu được phiên âm ghép bắt nguồn từ tên gọi trong ngôn ngữ bản địa (...) Việc đọc (...) khá phức tạp.

Hai chữ đầu tiên được khắc rất rõ nét.

Chữ đầu gồm hai phần : phần bên trái hơi chếch xuống dưới gồm ba vạch ngang và một nét sổ thẳng nhú đầu, có thể gần với bộ “vương” hay chữ “chủ”. Phần bên phải hơi chếch lên trên trông giống với một nửa của bộ “vũ” (lông vũ), gồm bốn nét. Chúng tôi nhận thấy cách viết chữ “Cửu” (một bên bộ vương một bên bộ cửu) theo nghĩa lưu cữu, cũ kỹ hay tên một loại đá ngọc, khá gần với chữ này. Thực ra trong ký tự tiểu triện chữ Hán có một chữ ghi âm cúi (?) được cho là tiền thân của chữ Hợi sau này. Kiểu ghi âm như vậy xét thấy khá giống phần bên phải hơi chếch lên trên của chữ đầu tiên trên trống “Phú” mà chúng ta đang bàn đến. Điều này củng cố thêm cách đọc chữ đầu tiên này là “Cửu”.



Trống "Phú" - giả thuyết phục dựng chữ Cửu Chân


Chữ thứ hai rất phức tạp, đếm được tới 18-19 nét. Nửa bên trái khá rõ là một chữ “nhật” có đường sổ bên phải kéo dài. Về mặt tự dạng có thể gần với chữ “ngõa”. Vì dự đoán tên địa danh thời Âu Lạc gắn với vùng chiêm trũng Mỹ Đức, Phú Xuyên (Hà Tây cũ) nên tôi hướng về những địa danh như Chu Diên, Câu Lậu, Cửu Chân. Do đó tôi đã chọn chữ “Chân” có nghĩa là (thật) hay là tên của dòng họ Chân thời cổ. Chữ này nhờ có bộ “ngõa” bên phải, bên trái là bộ “tứ” (ở trên) và bộ “thổ” (ở dưới) phần nào cũng khá gần gũi với cách người xưa “vẽ” cái chữ mà ta đang cố đọc.

Như vậy “Cửu Chân” còn mang nặng tính giả định (...) Nếu tạm chấp nhận (...) thì dòng chữ Hán khắc trong vành chân đế trống Phú có thể đọc như sau:

“CỬU CHÂN, TRỌNG LỤC QUÂN, NGŨ CÂN, BÁT LẠNG, DANH VIẾT PHÚ, ĐỆ VỊ THẬP NHẤT"

nghĩa là:

(Trống của bộ) Cửu Chân (?), nặng 185 cân rưỡi , tên đặt là “Phú”, đứng hàng thứ 11.

Kết luận

1 - Đây là chiếc trống Đông Sơn có minh văn thứ tư đã được nghiên cứu. Chiếc thứ nhất khai quật trong mộ Loubowan (Quý Huyện, Quảng Tây, Trung Quốc), chiếc thứ hai phát hiện ở Indonesia . Chiếc thứ ba khai quật ở Gò Mả Tre (Cổ Loa, Hà Nội). Trừ chiếc trống ở Indonesia, minh văn được khắc trên khuôn đất trước khi rót đồng và vì vậy chữ in nổi ở trên rìa mặt trống, ba chiếc còn lại chữ đều được khắc chìm trên phần chân trống sau khi đúc. Số thạp đồng Đông Sơn có khắc minh văn theo cách tương tự cũng đã có ba chiếc được nghiên cứu và công bố .

2 - Không kể trống Indonesia thì nội dung minh văn khá thống nhất ở chỗ đều chỉ là ghi dấu về trọng lượng, dung lượng, tên gọi và thứ hạng của đồ vật. Kiểm tra đối chiếu với các đồ đồng có minh văn khác trong phạm vi nước Âu Lạc và Nam Việt có thể thấy mặc dù có sử dụng tên các đơn vị dung, lượng Trung Nguyên nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp lại không thống nhất về độ lớn như đơn vị của Trung Nguyên. Điều này củng cố thêm tài liệu chứng tỏ tính độc lập và ý thức bài Hán cao của Âu Lạc và Nam Việt. Đơn vị trọng lượng Lĩnh Nam quy ra “cân” giao động trong khoảng 250-260 gram trong dân gian và 260-270 gram ở quan xưởng. Cũng như vậy, dung lượng “thăng” giao động trong khoảng 190-210 cc (mililitre). Vùng Phiên Ngung có đơn vị dung lượng nhỏ nhất (khoảng 180cc / thăng). Khi cân, trọng lượng hiện tại của trống Phú là 45,8kg. Nếu đem chia bằng con số cân ghi ở minh văn (185,5) thì một cân tương đương với 252,5 gram, nằm trong khung thấp của cân dân gian vùng Âu Lạc, Nam Việt.

3 - Trong số bốn trống có minh văn thì trống Kur ở Indonesia đúc nổi và chiếm vị trí ở phần liền với tượng cóc, thậm chí ở cả phần giữa các chân cóc. Đây là một điều rất khó hiểu, vì thông thường khi đúc trống, khuôn tượng cóc cũng như khuôn quai trống là những cụm khuôn đúc rời. Vì vậy phần hoa văn mà khuôn đúc rời này chiếm chỗ thường bị mất hoặc không còn nguyên vẹn. Ba chiếc còn lại đều khắc minh văn vào sau và đều ở vị trí bên trong vành chân đế trống. Chiếc trống trong mộ La Bạc Loan được cho là ở khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên. Chủ nhân có thể là một huyện quan của Nam Việt. Minh văn trên trống Cổ Loa cũng có thể xếp vào khoảng niên đại này. Theo tôi đây cũng là niên đại có thể dùng cho minh văn trên trống Phú.

4 - Các đồ đồng quý phát hiện trong phạm vi quốc gia Âu Lạc và Giao Chỉ sau này thường thấy được đặt tên. Chiếc bình đồng kiểu Hán có chân đế trổ lỗ quai dạng thạp Đông Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ký hiệu LSb17241 có dòng chữ khắc chìm ở viền quanh miệng, trong đó có mấy chữ “danh viết Vạn Tuế” (...) Thạp BMM 2505-29 có 22 chữ minh văn, có thể của Triệu Đà, trong đó có ba chữ “danh viết Quả”. Chiếc trống “Phú” này cung cấp cho chúng ta thêm một trường hợp nữa: “danh viết Phú”.

5 - Ngoài những chữ Hán đã trở nên thông dụng, trong minh văn Âu Lạc, Nam Việt, Giao Chỉ có những chữ hoàn toàn mới (ra đời) để ghi những âm địa danh, các hiện tượng địa lý, nhân văn riêng của vùng này. Chúng ta đã chứng kiến hiện tượng “Long Xoang” trên chiếc thạp của Triệu Đà và ở trống Phú có thể là hiện tượng “Cửu Chân”. Nếu giả thuyết phục dựng của tôi là đúng thì Cửu Chân có thể bao gồm cả phần đất Trường Châu sau này, tức gồm phần nam lưu vực sông Đáy. Vùng đất này trong lịch sử đã từng thuộc Ái Châu và khi địa danh Thanh Hóa được hình thành thì vùng đất phía bắc dãy Tam Điệp cũng từng mang tên Thanh Hoa ngoại trấn.

6 - Trong bài nghiên cứu về minh văn chữ Hán thời Đông Sơn đăng trên tạp chí Khảo cổ học, số 5-2007, tôi đã từng phân tích cách dùng chữ “wei” – với hai âm Hán Việt là “Mùi” (trong chuỗi can chi 12 con giáp) và “Vị” (trong vị chí tam công – chúc đạt được cương vị tam công, những chức quan cao nhất trong triều đình). Chữ “wei” được dùng gắn với chữ “đệ”, vì thế “đệ vị” (đứng ở thứ vị…) có nghĩa hơn là “đệ Mùi” (là chiếc thứ… của hạng Mùi). Vì vậy, tôi nghĩ rằng “đệ vị thập nhất” nên dịch là “chiếc trống này đứng ở hàng thứ 11 trong tổng số tài sản” kê biên. Cách dùng chữ “vị - Mùi” thay cho chữ “vị” trong “vị trí” là một bằng chứng ghi âm “nôm” rất sớm và điển hình ở nước ta, tương tự cách người Nhật dùng chữ “thị” (thì, là, mà) thay cho chữ “thị” (dòng họ, thị tộc) trên minh văn gương đồng ghi tên các dòng họ Trương (thị), Trần (thị)… dưới thời Kofun.

Như vậy, công thức “đệ vị…” trong đó sử dụng chữ “vị - Mùi” đã xuất hiện ổn định trên minh văn Âu Lạc, Giao Chỉ (căn cứ vào) ba trường hợp đã được chúng tôi nghiên cứu: thạp Đông Sơn BMM-2505-29 ở Geneva, trống “Phú” và bình đồng LSb17241 của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.


Hà Nội, 16-6-2011


(Lược trích từ bài “Thêm một trống đồng Đông Sơn có khắc minh văn cổ” của TS Nguyễn Việt, đăng trên trang
www.drnguyenviet.com. Nhan đề bài tạm sửa cho vừa khổ trang GN, kính mong tác giả lượng thứ.)