Nguyễn Quang Sáng, “Chiếc lược ngà”




Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ giữa Tháp Mười mà chung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tôi còn phải đợi. Ban ngày, chúng tôi chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá. Ngày câu cá đã đủ ăn rồi, đêm không ai muốn câu nữa. Trong lúc nhàn rỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu chuyện này của một đồng chí già kể lại. Ông vốn là người hay kể chuyện - nhiều nhất là chuyện tiếu lâm. Trước khi kể, bao giờ ông cũng cười mỉm, mặt trở nên hóm hỉnh, đúng là ông lão có duyên già. Nhưng hôm ấy ông khác thường. Ông già ngồi đầu hơi cúi xuống, trầm lặng. Chắc là một chuyện cảm động, chúng tôi đoán như vậy và không đùa nữa.

Bên ngoài, một cơn gió ù ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một chòm cây trong khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển. Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ông điều gì, ông nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ông mới ngẩng lên mà nói. Ông nói với chúng tôi mà như nói với cả trời nước vậy, ông không nhìn vào chúng tôi mà nhìn ra ngoài nước, nhìn lên các vì sao.

- Chuyện xảy ra cách nay đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn còn thấy bàng hoàng.

Ông mở đầu với giọng trầm đục.

- Hôm đó, tôi đi từ trạm N.G. đến L.A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì chúng tôi ai cũng muốn biết người lái ấy là ai. Không phải tò mò mà cần phải biết. Bởi vì trước khi đi, người trạm trưởng có báo cáo với chúng tôi đó là một đoạn đường dài, một đoạn đi xuồng máy, một đoạn đi bộ, đi xuồng dễ gặp trực thăng soi, đi bộ thì dễ gặp biệt kích. Gặp trực thăng soi, anh em phải bình tĩnh, không được nhốn nháo, không được tự ý mà phải tuyệt đối tuân theo sự điều khiển của người lái. Nói như vậy có nghĩa là sinh mạng mình phải hoàn toàn phó thác cho người cầm lái ấy có phải không các bạn? Cho nên, tôi cần nhìn, cần biết rõ người đang cầm giữ sinh mạng mình. Nhưng trời đã tối rồi, tôi chỉ thấy đó là một cô gái người mảnh khảnh, vai mang cây “cạc-bin” bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng.

Trước đó, tôi có được nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên xuất sắc. Một hôm cô dẫn một đoàn khách qua sông. Cô để khách dừng lại ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: “Tình hình yên, không có gì, anh trở lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua”. Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta qua sông, thế là thoát. Tôi nghĩ, nếu người nữ giao liên ấy là cô đang lái chiếc xuồng máy này thì mình không đến nỗi lo lắm. Tôi muốn hỏi nhưng thấy không tiện nên đành phải nói khéo: “Ở trạm này có mấy cháu nữ vậy hả cháu?”. “Dạ, một chị là chị nuôi với cháu nữa là hai”. Vậy là cô nữ giao liên này rồi, tôi cảm thấy mừng. Nghe giọng cô nói, tôi đoán cô bé độ mười tám hai mươi là cùng. Tôi cảm thấy mến, muốn hỏi thêm nhưng thấy cô đang lom khom quấn dây vào bánh trớn nên lại thôi. Quấn xong, cô đứng thẳng người, quay lại nói với xuồng sau: “Tôi đi trước nha!”. Mấy anh giao liên xuồng sau nhao lên: “Thôi chị Hai đi trước đi”, “Chị Út đi mạnh giỏi!”. Người gọi chị Hai, người gọi chị Út, chẳng biết cô thiệt thứ mấy. Cô đáp lại mấy câu láu lỉnh, gọi mấy chú giao liên là em rồi quay lại chúng tôi, hạ giọng hết sức lễ phép, báo những điều không may có thể xảy ra nhưng giọng nói lại dịu dàng - dễ thương nữa - khác hẳn với giọng nói căng thẳng của ông trạm trưởng, nên tôi thấy không lo lắm. Nói xong, cô khom lưng, giật máy. Xuồng rung lên theo tiếng máy nổ giòn, từ từ tách ra khỏi vòm cây rậm, rồi rào rào lướt tới. Gió thổi mát cả người, mát đến từng chân tóc.

Theo lời cô dặn, anh em lúi húi mở bòng. Còn tôi, tôi có cái gì quý ngoài giấy tờ, tiền ăn đường đã để sẵn trong túi? Tôi chợt nhớ tới cây lược ngà nhỏ. Tôi liền mở bòng, mò lấy cây lược, cho vào túi nhái đựng giấy tờ, bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận. Các bạn! Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và ngậm ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy.

Trong những ngày hòa bình vừa lập lại, tôi cùng về thăm quê với một người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Chúng tôi cùng thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh - và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một tuổi. Anh thứ sáu và cũng tên là Sáu. Mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh vài lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến. Nhưng cái cảnh đi thăm chồng ở chiến trường miền Đông không đơn giản. Chị không dám đưa con qua rừng. Nghe chị nói có lý anh không trách được. Anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi. Đến lúc được về, cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng những bước dài, rồi dừng lại kêu to: “Thu! Con”. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh. Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ. Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo dài bên má phải anh lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ. Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, anh chầm chậm bước tới, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con!”. Con bé thấy người lạ, mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm xuống trông thật đáng thương, và hai tay buông như bị gãy.

Vì đường xa, chúng tôi ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé không kịp nhận cha. Đêm nó không cho anh ngủ với chị. Con bé tính khí thật không vừa, nó tuột xuống giường, đứng dưới đất chồm lên, nắm tay anh kéo ra. Kéo không được, nó kê miệng cắn. Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu kêu. Nghe má nó biểu kêu ba vô ăn cơm thì nó nói: “Má kêu đi”. Má nó nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Anh Sáu vẫn ngồi im, giả bộ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra: “Cơm chín rồi!”. Anh cũng không quay lại. Con bé bực quá, quay lại má nó: “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Anh quay nhìn con vừa khẽ lắc đầu vừa cười. Bữa sau, đang nấu cơm thì má nó chạy đi mua thức ăn. Má nó dặn, ở nhà có gì cần thì kêu ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua - nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải kêu ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên, vẫn nói trổng: “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Tôi lên tiếng mở đường cho nó: “Cháu phải nói “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy”. Nó như không để ý đến câu nói của tôi, lại kêu lên: “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó: “Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cũng bị đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao?”. Lúc đó nồi cơm sôi lên sùng sục. Nó hơi sợ, nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại nhìn lên. Tiếng cơm sôi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc. Nó nhìn nồi cơm, rồi nhìn lên chúng tôi. Thấy nó luýnh quýnh tôi vừa tội nghiệp vừa buồn cười, nghĩ chắc thế nào cũng chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lầm bầm điều gì không rõ. Con nhỏ đáo để thiệt. Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó. Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên: “Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Tôi tưởng con bé sẽ lăn ra khóc, giãy, đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Nó sang qua nhà ngoại, méc với ngoại và khóc ở bên đó - chiều, má nó sang dỗ dành mấy nó cũng không về. Ngày mai anh Sáu phải đi, đó là đêm cuối cùng của hai anh chị, chị cũng không muốn bắt nó về.

Sáng hôm sau, bà con bên nội bên ngoại tới rất đông, con bé cũng về theo ngoại nó. Anh Sáu phải lo tiếp khách, anh như không chú ý tới con nữa. Còn chị Sáu thì lo chuẩn bị đồ đạc cho chồng, chị xếp từng chiếc áo, gói ghém đồ đạc vụn vặt bỏ vào cái túi nhỏ, cứ lúi húi bên chiếc ba-lô. Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng trong góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, không bướng bỉnh hay cau có nữa mà sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng nữa, mà có vẻ nghĩ ngợi. Đến lúc chia tay, mang ba-lô lên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới đưa mắt tìm con, thấy nó đứng trong góc nhà. Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng chắc sợ nó lại giãy lên bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao. “Thôi! Ba đi nghe con!”, anh Sáu nói nho nhỏ. Mọi người đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, giữa lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: “Ba... a... a... ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. Trong lúc đó, ngoại nó cho tôi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó không chịu nhận ba nó. Bà hỏi: “Ba con, sao con không nhận?”. “Không phải”, đang nằm mà nó cũng giãy lên. “Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con quên rồi chớ gì?”. “Ổng không giống cái hình ba chụp với má”. “Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi”. “Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo như vậy”. À ra vậy, bây giờ bà mới biết. Té ra nó không nhận ba nó là vì cái vết thẹo. Bà liền cho nó biết, ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương, rồi nhắc lại tội ác mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm.

Hai cha con vẫn ôm chặt lấy nhau. Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con: “Ba đi rồi ba về với con”. “Không!”, con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ ba nó, rồi chắc nghĩ chưa đủ, nó dang cả hai chân quắp chặt lấy ba nó, đôi vai nhỏ bé run run. Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt. Tôi bỗng nảy ra ý nói anh ở lại vài hôm. Nhưng thật khó, chúng tôi chưa biết mình sẽ đi tập kết hay ở lại. Chúng tôi cần về đúng ngày, nhận lệnh để kịp chuẩn bị. Thế là đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về nó, má nó nói: “Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về”. Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ: “Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược”. Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo: “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”. Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống.

Sau đó hai chúng tôi trở lại miền Đông. Chúng tôi là cán bộ đoàn thể, chúng tôi không đi tập kết. Từ năm năm mươi tư đến năm mươi tám, năm mươi chín là những năm khó khăn, các bạn đã biết rồi. Những đêm rừng, nằm trên võng mắc chỉ thấy tấm ny-lông nóc, lúc nhớ con, anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Một hôm hai đứa đang rì rầm nói chuyện, anh bỗng ngồi bật dậy: “Phải rồi! Ở rừng này, người ta thỉnh thoảng có bắn voi, mình phải làm một cây lược bằng ngà cho con bé mới được”. Và anh ao ước có một khúc ngà, một khúc ngà voi. Thật may mắn, sau đó không lâu, vì thiếu thức ăn, anh em nghĩ đến chuyện đi săn, đi săn bằng tên thuốc chớ không phải bằng súng. Lúc đó rừng vẫn còn phải giữ im lặng. Thật ra thì anh em không đi săn voi, chỉ tình cờ gặp. Anh em định bỏ qua, nhưng anh Sáu nhứt định bắn. Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá, rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm ny-lông nóc, tôi bỗng nghe tiếng kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mỹ đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ như người thợ bạc. Chẳng hiểu sao tôi thích ngồi nhìn anh làm và cảm thấy vui vui khi thấy bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Mỗi ngày anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược hoàn thành, dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, loại cho con gái dùng để chải mái tóc dài, chỉ có một hàng răng thưa. Trên sóng lưng lược có một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Những đêm nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi miết lên tóc cho cây lược thêm bóng. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám, trong một trận càn lớn của địch, anh Sáu hy sinh. Trong giờ phút cuối cùng, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh. “Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu”, tôi cúi xuống sát mặt anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.

Các bạn ơi! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì đã đành một lẽ, nhưng người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, phải để bằng phẳng như mặt rừng vậy. Tôi lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu. Sau khi có căn cứ khá an toàn, người nhà tôi có đến thăm. Tôi định gởi cây lược ngà về cho cháu Thu. Nhưng chị Sáu và cháu Thu không còn ở làng nữa. Vì thế mà tôi giữ mãi cây lược.

Tôi cầm cây lược trong tay, lòng lần nữa bùi ngùi. Trong lúc đó tiếng máy vẫn nổ giòn, và tôi lại muốn nhìn rõ cô giao liên - người đang giữ sinh mạng của mình. Đêm không tối, cũng không sáng, nền trời qua lớp mây mỏng rải rác một vài chòm sao. Tôi chỉ thấy dáng người, gương mặt như hơi tròn và đôi mắt. Đôi mắt thật là khó tả. Chẳng hiểu cớ sao, từ cái ánh mắt ấy, tôi dần dần thấy một người quen, quen lắm. Tôi cố nhớ, nhớ không ra, thấy mình lẩn thẩn. Bỗng có tiếng kêu thất thanh: “Máy bay! Máy bay!”. Xuồng liền chòng chành, như có người đứng lên định lao xuống, tiếng nói láo nháo: “Tấp vô!”, “Đâu, nó đâu?”, “Phía sau kìa, đèn nó đó!”, “Tấp vô, tấp vô. Phản lực!”… Cô giao liên cho máy nổ nhỏ bớt, quay lại sau một lúc rồi nói: “Không phải đâu, sao trên trời đó mà”. Trong lúc mọi người đang lo, có người hoảng hốt định nhảy thì giọng của cô nghe thật bình tĩnh. Dù chưa tin hẳn, nhưng trước thái độ thản nhiên của cô, ai nấy lại ngồi yên. “Sao trên trời đó mà”, giọng nói nhỏ nhẹ và ngọt ngào. Và cô lại cho máy nổ to. Sau mấy ngày đi bộ, được ngồi trên chiếc xuồng máy thật là thích thú. Nhưng nghĩ đến máy bay, tôi lại thấy phiền. Tiếng máy đuôi tôm nổ to quá như át cả tiếng máy bay. May mà gặp cô giao liên bình tĩnh, cô mà rối, chắc có người đã nhảy rồi, xuồng chắc cũng chìm mất. Tôi cố không nghĩ gì khác, tập trung lắng nghe tiếng máy bay.

Xuồng bắt đầu vào một quãng kinh trống, hai bên bờ không có một ngôi nhà, xa xa một chòm tre, một lùm cây, hai bên là cánh đồng hoang. Tôi sốt ruột muốn cho xuồng lao nhanh hơn. Hình như hiểu tâm trạng tôi, cô cho máy nổ to. Sóng trước mũi xuồng trào lên kéo thành những đợt sóng dài, làm run rẩy đám cỏ hai bên bờ, vỗ bập bềnh các giề lục bình và các đám nghề mọc hoang. Trong lúc mọi người đang yên tâm, thích thú ngồi trên chiếc xuồng lao nhanh thì cô giao liên chợt tắt máy, thông báo: “Máy bay!”, vừa nói vừa tấp sát lại một bụi tre. Chiếc xuồng sau cũng tấp lại. Đúng là có tiếng trực thăng. Tai cô gái thính thiệt, tiếng máy bay lẫn trong tiếng máy đuôi tôm mà cô nghe được. “Nó còn xa lắm”, cô trấn tĩnh chúng tôi, “Các bác, các chú bước lên phân tán mỏng, tìm núp vào chỗ kín. Nếu nó có soi tới, các bác, các chú nhớ đừng động đậy”. Trong lúc cô nói, anh em “khách” đã vọt lên bờ hết rồi. Tôi là người cuối cùng. Tôi vừa định bước thì cô nói: “Bác cứ ở đây đi. Xuồng ít người không sao!”. Nếu một người nào khác nói vậy, tôi chắc không nghe. Trước thái độ của cô, ngồi cùng một chiếc xuồng với cô tôi thấy vững hơn ngồi trong công sự. Đám trực thăng Mỹ từ đầu kinh soi lần lần tới, ánh sáng ngọn đèn soi của nó mỗi lúc một gần. Bọn chúng thường đi ba chiếc. “Lấy lá cây che kín, đừng động đậy nghen bác”, cô lại nhắc tôi. Đó là lần đầu tiên tôi bị trực thăng soi, khi ngọn đèn của nó soi qua tôi thấy xuồng mình hiện ra rõ quá, thấy cái be dài, thấy những cái ba-lô dưới những lỗ trống trong lớp lá ngụy trang, thấy cỏ quặn lên như trong một cơn lốc, tôi nghĩ: “Thôi chết rồi!”. Tôi rút vai thu mình cho nhỏ lại. Như đoán được tâm trạng của tôi, cô nói nhỏ: “Nó không thấy rõ mình như mình thấy mình đâu”. Lần này, lời cô nói với tôi không hiệu quả nữa, tôi muốn vùng lao xuống nước, nhưng kịp trấn tĩnh. Rồi cái ánh sáng ma quỷ với tiếng động cơ rầm rộ cũng xa dần. Đêm lại mờ mờ. Tôi vẫn ngồi im vì còn lo nó quay trở lại. Cô giao liên nói như an ủi tôi: “Nó làm coi dữ vậy, chớ nó chẳng thấy cái gì đâu. Miễn là mình bình tĩnh, đừng động đậy”. Đoạn cô nhìn ra cánh đồng, gọi anh em khách. Anh em có người ướt nhem, vừa thay quần áo vừa chửi rủa. Xuồng lại nổ máy.

Quá nửa đêm, đoàn chuyển lên đi bộ. Chúng tôi đi men theo bờ mẫu, băng qua cánh đồng, bờ mẫu chỗ bùn lầy, chỗ lồi lõm, chỗ nhầy nhụa, chúng tôi đi sát vào nhau và hầu như thay phiên nhau trượt té vậy. Người này đang lom khom ngồi dậy, người khác lại đánh “ạch” ngã xuống ruộng. Chúng tôi dép cầm tay mò mẫm từng bước, cứ thế mà đi. Gần đến bờ sông, giao liên nói dừng lại, phái trinh sát đi thám thính đường. Hai trinh sát đi khoảng hai mươi phút thì đụng biệt kích. Lần này địch không nằm phục trong đám vườn dọc bờ kinh, mà chồm ra ngoài ruộng. Súng nổ tới tấp. Đạn rít veo véo qua đầu chúng tôi. “Nằm xuống!”, cô giao liên ra lệnh. “Anh Tư dẫn khách đi, tôi ở lại”. Chẳng hiểu sao, lúc đó tôi muốn kéo cô cùng đi. Qua giọng phân công của cô, tôi đoán cô là nhóm trưởng. Vừa nghe tiếng cô, nhìn lại cô đã vụt chạy đâu rồi. Đạn đan thành lưới rít qua đầu chúng tôi, khiến chúng tôi phải nằm dán người vào bờ mẫu không dám ngóc đầu lên. Trong lúc đó, phía bên trái, bỗng có nhiều tiếng “cạc-bin” nổ. Lập tức đường đạn địch tập trung về hướng đó. Tôi đoán biết, cô giao liên đang dẫn đạn bay về phía mình. “Chạy!”, anh Tư ra lệnh. Đoàn khách chúng tôi liền vọt lên. Tôi không phải là người dạn súng cho lắm, nhưng lúc đó tôi không thấy lo cho mình nữa, cứ nghĩ đến cô giao liên. Đoàn khách chúng tôi - không hàng ngũ - chạy bừa qua ruộng lúa. Tiếng súng mỗi lúc một dữ dội. Tôi cố lắng nghe tiếng cạc-bin của cô, nhưng không tài nào nghe được, lòng cứ xốn xang. Đoàn tập hợp lại trong một đám dừa bị chất độc hóa học, tàu lá lơ thơ, trống trải. Còn đủ mặt. Ai cũng mệt mỏi, anh em giao liên cho chúng tôi nằm nghỉ đến sáng. Có người không mắc võng, cũng chẳng trải ni-lông, nằm vật xuống đất, lấy bòng làm gối, ngáy pho pho. Còn tôi, vì nhiều nỗi, nên cứ lơ mơ. Tôi đang trên đường về tỉnh nhà. Làng đâu còn như xưa nữa. Tôi nghe nói vậy, nhưng không thể hình dung ra được. Tôi cứ nhớ lại cảnh cũ. Nhớ những lần trở về, nhớ cảnh chia tay của cha con anh Sáu mà cây lược tôi vẫn còn giữ đây. Trong khi nghĩ miên man, đôi lúc tôi chợt nhớ đến anh em ở lại chặn bọn biệt kích. Nhất là cô giao liên. Chẳng hiểu cô nhỏ và anh em ra sao. Mệt quá rồi tôi cũng thiếp đi...

Hình như tiếng chân, tiếng nói cười làm tôi chợt tỉnh dậy. Thấy một đám người, chẳng nghe được họ nói gì, nhưng biết là đang kể lại những chuyện sôi nổi. Và tôi thấy cô giao liên, quần áo cô ướt đẫm, bùn đất bê bết. Thế là họ tới kịp rồi. Bây giờ tôi mới nhìn rõ cô. Cô vừa thoát khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới. Mặc dù nước da cô bị rám nắng, tôi trông cô không quá hai mươi tuổi. Con gái trên hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô trông mới ngây thơ làm sao, vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi. Tôi bỗng muốn tỏ lòng mến phục của tôi đối với cô, cả lòng cảm ơn nữa. Nhưng chẳng lẽ lại nói như vậy, tôi mỉm cười chào cô và làm quen: “Này cháu, bác lo cho cháu quá! Cháu thứ mấy?”. “Dạ cháu thứ hai”. “Sao bác lại nghe có người kêu cháu là chị út? Chắc là cháu đã có...”. “Dạ không!”, cô giao liên chận câu nói của tôi lại, “Cháu vừa thứ hai vừa thứ út, vì cháu là con một mà”. “Cháu là người ở làng nào mà sao bác thấy quen quen”. “Dạ cháu ở Cù Lao Giêng”. Nghe đến tên làng, tôi bỗng giật mình. Nhìn đôi mắt cô nhỏ, ngực tôi bỗng phập phồng, và như có linh tính, tôi liền hỏi lại, hỏi dồn dập: “Có phải Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa không vậy cháu?”. “Dạ phải”. “Cháu tên gì?”. “Cháu tên Thu”. “Thu à?”, tôi sững sờ, lặp bặp hỏi tiếp: “Có phải ba cháu là Sáu, má cháu là Bình phải không?”. Cô nhỏ kinh ngạc đến nỗi không nói được nữa, chỉ mở tròn mắt nhìn tôi. Trong lúc đó, anh em giao liên trạm L.A. kêu khách chuẩn bị lên đường, nhưng tôi quay lại nói: “Chờ tôi một chút”. Cô nhỏ vẫn tròn mắt nhìn tôi, đúng, đúng, đúng là đôi mắt của con cháu, tôi thầm nghĩ. “Có phải không cháu?”. “Dạ... Sao bác biết?”. Tôi cố nén xúc động: “Bác là bác Ba đây nè. Cháu có còn nhớ lúc ba cháu đi, ba cháu có hứa mua cho cháu cây lược không?”. Cô cháu khe khẽ gật đầu: “Dạ nhớ, dạ nhớ”.

Các bạn ơi, trong kháng chiến có những cuộc gặp gỡ thật tình cờ! Tôi vừa nhìn cháu, vừa móc túi lấy ra cây lược. “Ba cháu gởi cho cháu cây lược này. Cây lược ngà do ba cháu tự tay làm”. Đôi mắt của cháu lại to tròn hơn, mặt xúc động đến thẫn thờ. Cháu đưa tay nhận, nhìn nó trân trân, ngực phập phồng. Tim tôi bỗng nhói đau, miệng buột một lời nói dối: “Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu không về được, nên gởi cho bác”. Cháu liền chớp mắt nhìn tôi, môi mấp máy run run: “Chắc là bác lầm, cây lược này không phải của ba cháu”. Tôi hoang mang, hỏi lại: “Ba cháu tên Sáu, má cháu tên Bình, phải không?”. “Dạ phải”. Hình như cháu muốn khóc, mắt đã đỏ hoe, nhưng cố nén và nói: “Nếu cháu không lầm thì chắc bác sợ cháu buồn nên bác nói dối cháu. Cháu biết ba cháu chết rồi”. Cháu chớp mắt, hai giọt lệ ứa ra, vỡ tràn qua đôi mắt. “Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên...”. Cháu còn muốn nói gì nữa, nhưng giọng nghẹn tắc, đầu cúi xuống, mái tóc khẽ run run. Anh em trong đoàn lại táo tác kêu, giục tôi đi. Không thể nán lại được nữa, tôi đành vội vàng hỏi xin cháu địa chỉ, hỏi thăm qua mẹ cháu và bà con. Chưa hết bàng hoàng vì gặp gỡ bất ngờ thì đã phải chia tay, nhìn cháu tôi bỗng buột miệng nói: “Thôi, ba đi nghe con!”. Tôi không nghe lời đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt mấp máy. Đi được một quãng xa, ngoái nhìn tôi thấy cháu cố đi theo tôi một đoạn đường. Cháu dừng lại trên bờ mẫu, những đợt sóng lúa xanh nối đuôi nhau dập dờn như chạy đến vỗ về. Sau lưng cháu là đám dừa bị rải chất độc hóa học, tàu lá chỉ còn cọng khô giống những chiếc xương cá khổng lồ treo lủng lẳng, đọt non vừa mới đâm lên xa trông như một rừng gươm.


1966