“Huy Cận nghĩ về thơ”




Các cụ ta xưa kia sống cái triết Ðông chứ không suy luận về triết Ðông.

Các cụ ta xưa kia làm thơ chứ không lý luận về thơ.

Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ sống khiến “ta thật đáng thờ (...) làm ông cha”.(1)

Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ thơ “động đất trời”.(2)

Chưa gặp Tây, người Việt Nam coi như chỉ sống và thơ. Gặp Tây, thấy Tây luận say sưa, thỉnh thoảng ta cũng luận tí cho vui, sau khi đã sống và thơ thật đã đời.

Sau hơn nửa thế kỷ sáng tạo, Huy Cận gửi lại cho hậu thế chút suy nghĩ về nghệ thuật.(3) Cái nghĩ nói chung thấu đáo mà cách diễn cái nghĩ nhiều chỗ cũng thú vị. Ai ưa luận vì luận thì đi nghe “Bụt” ở “Tây phương”, còn ai thích luận vì thơ thì đây tiếng “Bụt chùa nhà”!

*

“Chúng ta ngày nay có dịp tiếp xúc với nhiều lí luận văn nghệ của các nước (...) điều ấy rất bổ ích cho sự nghiên cứu, tìm tòi của chúng ta. Nhưng thiết tưởng cũng cần tìm hiểu (...) những suy nghĩ, những tổng kết của cha ông về văn học, nghệ thuật. Chả lẽ bụt chùa nhà thì cứ phải kém thiêng!”.

“Chùa nhà chẳng có Bụt ư
Mà em cắp nón đi tu chùa nào…”.


Bụt ta thiêng lắm, các “em” ơi.

“Người nghệ sĩ phải tự tạo luôn luôn thì mới sáng tạo được tác phẩm (…) tự nhào nặn mình qua hành động trong cuộc sống và (…) qua lao động nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra nội dung, sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết (…) là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể hiện ra (…) Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn (…) anh chỉ mới có cái “khung”, chỉ mới có một niềm xúc động (…) anh còn phải lao động đổ mồ hôi (…) để cho niềm xúc động ấy đầu thai (…) Anh còn phải vật lộn trầy xương với cái vật chất của chữ (…) làm cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang hình thành, mà không có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành được (...) Một nhà phê bình (...) thường đơn giản hóa vấn đề đi, không thâm nhập vào quá trình biện chứng của việc sáng tạo nghệ thuật, cho nên không bắt được phép biện chứng của sự sáng tạo”.

Nghệ phẩm có xác và hồn. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, xác và hồn cùng lớn lên với nhau, ảnh hưởng qua lại. Chứ không phải là hồn đã lớn sẵn từ đầu và trơ trơ trong khi nghệ sĩ làm xác. Một cảm nghĩ mơ hồ chợt hiện ra thành vài câu thơ vu vơ. Những câu thơ đầu tiên ấy giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn một chút, hiện ra thành những câu thơ bớt vu vơ hơn một chút, rồi những câu thơ mới này lại giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn chút nữa v.v. Nghệ sĩ sáng tạo, không phải chỉ làm xác mà làm cả hồn!

“Các cụ ta ngày xưa thường nói “thơ ca di dưỡng tinh thần”. Ðúng lắm! (...) (Thơ giá trị chứa) một trạng thái tâm hồn (...) cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình đều như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng thành ý, ý còn mang tất cả cái rung động của tình, một trạng thái tinh khôi, sáng tạo (…) Ðúng là một chất di dưỡng cho tâm hồn (…) Một bài thơ hay là một cơ thể sống trong đó ý và tình, cảm giác và cảm tưởng, chữ và nhịp, hình tượng và nhạc điệu, tất cả đều tồn tại trong một thể thống nhất, gây thành một xúc động thống nhất, toàn diện (…) Cho nên có những điều kỳ lạ, tưởng như mâu thuẫn, lúc nhà thơ đang làm thơ và lúc độc giả đang đọc thơ, đang hưởng thơ. Ví dụ: làm hoặc đọc một bài thơ về đau khổ (…) Theo lý luận thông thường thì lúc đó nhà thơ hay người đọc thơ phải ở trạng thái đau khổ (…) Nhưng không! Nhà thơ làm thơ về đau khổ trong một trạng thái tâm hồn hào hứng, trong một trạng thái trái đang chín cây. Người đọc thơ được di dưỡng tinh thần với trạng thái ấy, mặc dù người làm thơ có thể mang nỗi đau khổ trong đáy tâm hồn mình”.

Làm hay đọc một bài thơ hay, đều được sướng. Nhưng người làm thơ sướng nhiều hơn người đọc thơ. Vì ngoài cái sướng trong tư cách một người đọc bài thơ đã làm xong (thi sĩ cũng là một độc giả của thơ mình), người làm thơ trước tiên có cái sướng trong khi sáng tạo. Ồ, được sống cái quá trình biện chứng ấy, trải nghiệm cái diễn biến nhờ năng khiếu và sự cố gắng của mình mà một tứ “phôi thai” bắt đầu hiện ra thành lời, lời và tứ tương tác, hoàn chỉnh cho nhau, cùng lớn dần lên, để rút cuộc một bài thơ giá trị ra đời, sướng để đâu cho hết! Kẻ trồng cây sướng hơn người chỉ ăn quả, như thế cũng là lẽ công bằng.

“Rung động (…) làm ra nghệ thuật (…) cùng loại với rung động của tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu của một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi - niềm - tinh - vân. Bắt đầu chưa có câu, chưa có lời, thậm chí chưa có tứ cụ thể. Câu sẽ đến sau, lời sẽ đến sau. Nhưng trước hết là một nỗi niềm ùn ùn trước ngực, rạo rực tâm hồn. Bắt đầu là tinh vân, tinh vân đọng lại mới hình thành mặt trời, mặt trăng và các hành tinh... Từng câu, từng lời cũng như những hành tinh, mặt trời, mặt trăng đọng lại từ tinh vân nguyên thủy. Thưởng thức thơ là phải biết sống lại quá trình ấy, quá trình từ nỗi - niềm - tinh - vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ. Biết sống lại quá trình tác tạo ra một bài thơ là “hiểu”, là xúc động thơ từ bên trong một cách biện chứng (…) Nỗi - niềm - tinh - vân (…) là do một quá trình tích lũy lâu dài (…) của người làm nghệ thuật mà có (…) tích lũy vốn sống (…) tích lũy hình tượng nó là tín hiệu sống (…) Tích lũy càng giàu, càng nặng thì nỗi - niềm - tinh - vân càng phong phú (…) muôn vẻ, muôn màu, bồi hồi sự sống”.

“Nỗi - niềm - tinh - vân”, so sánh hay và đẹp quá! Nhưng bảo rằng “thưởng thức thơ là phải biết sống lại (...) quá trình từ nỗi - niềm - tinh - vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ”, thì e là đòi hỏi quá nhiều nơi người thưởng thức. Chẳng những độc giả không tài nào “sống lại” quá trình sáng tạo của thi sĩ, mà chính thi sĩ có lẽ nói chung cũng khó thực sự sống lại được cái quá trình sáng tạo một bài thơ nào đó của mình!

Bài thơ làm xong như đóa hoa nở. Ta có thể thưởng hoa mà không biết gì về quá trình nở của hoa, thì ta cũng thể thưởng thức thơ mà không biết gì về quá trình ra đời của thơ.

Bài thơ hơn đóa hoa ở chỗ không tàn. Ta tha hồ thưởng thức đi thưởng thức lại. Ờ, nhưng mà nó cũng có tàn. Ấy là khi người sau trở nên khác hẳn người trước, không chia sẻ được rung động của người trước. Khi người đổi đến tận tâm hồn, “mặt trời” như Kiều cũng tắt ngóm. Thưởng thức sẽ là “thưởng thức” cái tiếng lẫy lừng chứ không phải thưởng thức thơ.

“Sự đầu thai của một tứ thơ vào một thể loại thơ, vào những hình tượng thích hợp, đó là một quá trình hào hứng và rộn rực, có khi dằn vặt (…) Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể loại nào (…) Xác và hồn, hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một (…) Nội dung quyết định hình thức, có nghĩa là phải tìm cho ra hình thức thích hợp để cho nội dung đầu thai thành máu thịt của tác phẩm (…) Nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ là ý, mà là cả một tổng thể xúc động”.

Có hồn rồi, chọn loại xác. Loại nào đây? Ơ, nhưng hồn hãy còn sơ sinh, biết cái loại chọn bây giờ rồi có hợp với hồn trưởng thành không? Có thể chọn theo linh cảm, theo thói quen, hay theo ngẫu hứng… Cứ chọn rồi làm đi, tới lúc nào đó, có khi là sau khi đã làm xong, sẽ thấy không ổn. Thì ta chọn lại, làm lại…

Thực ra, căn cứ vào một số bản dịch thơ Đường thành thơ tiếng Việt thể loại khác nhau mà cùng hay (như của Tản Đà và của Ngô Tất Tố), một “tổng thể xúc động” có thể “đầu thai” thành công vào hơn một loại xác. Lục bát tuyệt vời, nhưng nếu thử làm theo thể khác, biết đâu thơ tuy mang phong cách khác vẫn diễn được “tổng” và cũng rất hay. Cùng một tâm trạng, có khi nên được hơn một Thúy Kiều…

“Trong câu thơ, mỗi chữ (…) thấm nhuần cái sức xúc cảm của chữ bên cạnh (…) chữ trước nó và chữ sau nó tỏa điện vào nó, biến nó thành một nghĩa mới, mang cảm xúc mới (…) Sở dĩ có hiện tượng truyền điện như vậy là do có một luồng điện, tức là (…) hồn thơ nó chạy suốt qua câu thơ. Vì vậy (…) có một độ tối ưu (…) Nếu tham nhét nhiều (…) nhiều tính từ quá (…) thì tăng điện trở (…) luồng điện thơ không qua được. Cũng vì vậy mà trạng từ có vai trò đặc biệt, trạng từ có sức dẫn điện cao. Vì sao? Phải chăng trạng từ nói lên dáng dấp của sự vật, dáng dấp của tâm hồn (…) Khéo dùng trạng từ thì câu thơ dễ truyền đạt cho ta trạng thái tâm hồn thông qua trạng thái sự vật. “Nao nao dòng nước uốn quanh, nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đàng, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. “Nao nao”, “sè sè”, “rầu rầu”, vẽ lên dáng dấp rất khó tả của buổi chiều thanh minh và nàng Kiều lần đầu tiên gặp bóng dáng của số mệnh (…) “Ðộng phòng dìu dặt chén mồi, bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa” (…) Dáng dấp của tâm hồn chàng Kim nhớ mối tình đầu với nàng Kiều trong buổi sum vầy trở lại (…) chỉ cần hai trạng từ là nói được đầy đủ”.

Những từ mà Huy Cận gọi chung là “trạng từ” thuộc vào hai nhóm khác nhau.(4) “Nao nao” là từ cụ tượng hữu cảm, vì diễn cái nhìn sự vật với trạng thái tâm hồn của người nhìn lúc ấy. Trong khi “bâng khuâng” là từ trừu tượng cảm xúc, vì không liên hệ sự vật nào cả mà gợi thẳng tâm trạng. Những từ này nếu người làm thơ biết dùng thì sẽ có “hiệu quả (...) vô cùng lớn lao” đối với giá trị nghệ thuật của câu thơ. Từ lâu tiếng Việt đã đặc biệt giàu có “vật liệu” cao cấp, chỉ cần thiên tài múa bút là kết lại với nhau thành tuyệt phẩm văn chương.

“Trí nhớ cũng cần cho sáng tạo văn học, vì trí nhớ (...) tích lũy vốn sống, chất liệu của nghệ thuật (...) Có hai (...) cách nhớ: Một là nhớ các sự việc (...) (Hai là) nhớ trạng thái tâm hồn của chính bản thân tác giả lúc sự việc (...) đang xảy ra (...) Có lẽ cách thứ nhất cần nhiều cho người viết tiểu thuyết, và cách nhớ sau cần cho người làm thơ nhiều hơn (...) Lúc làm bài thơ là lúc phải sống lại đầy đủ xúc động của tâm hồn (...) Khó tưởng tượng một nhà thơ làm thơ tình yêu bằng cách mở các “ký họa” về tình cảm (…) Rèn luyện trí nhớ (là) làm cho quá khứ luôn luôn sống trong (…) tâm hồn”.

Đối diện thực tại, giác quan thu hình ảnh rồi tâm hồn nẩy sinh ấn tượng. Nhớ có thể là nhớ hình ảnh, có thể là nhớ ấn tượng, có thể cả hai. Làm nghệ thuật cần ấn tượng. Nếu quên ấn tượng mà còn nhớ hình ảnh, có thể tập trung vào hình ảnh để phục hồi ấn tượng cũ hoặc nẩy sinh ấn tượng mới. Nếu không hồi được cũ, cũng không sinh nổi mới, thì đành không làm được nghệ thuật.



Thu Tứ

Viết năm 2012
Sửa mới nhất 10-2023















_________
(1) Phạm Quỳnh, “Luận về quốc học”,
Nam Phong, số 163, 6-1931.
(2) Thơ Tố Hữu: “Tiếng thơ ai động đất trời, nghe như non nước vọng lời nghìn thu”.
(3) Tất cả những đoạn trích dẫn đều từ
Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi, nxb. Văn Học, 1995.
(4) Xem bài “Tương lai từ vựng tiếng Việt” của TT.