“Nguyễn Gia Trí nghĩ về vẽ”




Nguyễn Gia Trí ở trong số những “bậc thầy của hội họa Việt Nam”. Ngành vẽ của ta có thầy sớm lắm. Mới học vẽ lối Tây đó, thoắt cái các họa sĩ trẻ ấy đã vẽ nên những tranh thật đẹp và đầy phong cách riêng. Thái Bá Vân giải thích: “Cái linh ứng nghệ thuật tài hoa của thế hệ trẻ (…) là từ truyền thống sâu xa (...) của nghệ thuật dân tộc”.(1)

Có lẽ nhân đây ta ôn lại một chút về truyền thống tạo hình của dân tộc Việt Nam.

Ta vốn ít vẽ? Thực ra không đúng. Vẽ trên mặt phẳng, trên giấy trên vải quả có ít thật, nhưng trên đồ gốm thì người Việt vẽ nhiều chứ. Chẳng những nhiều, tranh trên gốm của ta từng góp phần tạo nên những tác phẩm gốm mỹ nghệ nổi tiếng quốc tế đương thời. Người Tây phương đã tìm hiểu gốm Việt cổ và nhận ra là nó khác gốm Tàu.(2) Hãy ngắm lại những sản phẩm thời Lý - Trần: hoa văn trang trí tiêu biểu có đường nét mềm dẻo, bố cục thưa thoáng, màu sắc đạm nhã, lắm khi chỉ vài nét đơn sơ, một màu men nâu bình dị, mà thật ưa nhìn. Cái lối đẹp mộc mạc tinh tế ấy khác hẳn lối đẹp cầu kỳ tinh xảo hay thấy ở sản phẩm gốm sứ Trung Quốc. Đầu đời Lê, cái vẽ trên gốm Việt vẫn còn tự phân biệt rõ, như thấy qua vô số hiện vật thuộc dòng gốm Chu Ðậu cổ (khoảng thế kỷ 14, 15) được trục vớt từ con tàu đắm ngoài khơi Hội An. Vô cùng tiếc, sau đó xu hướng tự Hoa hóa của triều đình Việt Nam bắt đầu làm nhòe đi bản sắc dân tộc của gốm ta, ít nhất nơi những sản phẩm gốm cao cấp mà lẽ ra phải chính là nơi phát huy nó mạnh mẽ nhất.

Vẽ chỉ là một trong nhiều phương pháp tạo hình. Xây nhà cửa, tạc đồ gỗ đồ đá, may áo váy v.v. đều là tạo hình. Cái thẩm mỹ quan riêng của người Việt tuy có gặp rủi như vừa nói, nhưng ở Thăng Long - Hà Nội nó vẫn giữ được nơi bao nhiêu kiến trúc lớn cái góc mái cong vút tự nghìn xưa. Ngoài kinh đô, ở Bắc bộ bao nhiêu chùa đình đền miếu cũng giữ nguyên cái góc mái ấy. Bước vào chùa, ta lại gặp cái quan niệm về đẹp của ta ở những pho tượng tuyệt vời, còn bước vào đình thì nó hiển hiện nơi những bức chạm tuy giản phác mà rất sinh động, gợi cảm. Truyền thống tạo hình Việt Nam dĩ nhiên cũng chính ngay đằng sau những áo tứ thân nâu non nâu già nền nã, những váy thâm buông chùng cửa võng rập rờn như sóng, những khăn mỏ quạ chít tài tình làm tôn dáng mặt, tất cả hòa hợp thành thứ trang phục duyên dáng chẳng nhường trang phục ở bất cứ đâu. Trở lại đồ gốm: tuy vẽ trang trí không bao giờ thực sự phục hồi, lên tới một đỉnh cao mới, nhưng về nặn thì sản phẩm về sau vẫn có sinh khí, có thể thấy nơi chẳng hạn rất nhiều kiểu bình vôi và cả ấm trà…

Về nghệ thuật tạo hình, người Việt Nam có truyền thống lâu dài đặc sắc.

Vào thời Nguyễn Gia Trí lớn lên, truyền thống ấy vẫn còn hiện diện mạnh mẽ. Nó giúp một số họa sĩ trẻ “linh ứng nghệ thuật tài hoa”. Riêng Nguyễn Gia Trí được giúp gợi ý cho cả về chất liệu. Lúc đầu ông cũng vẽ tranh sơn dầu, nhưng chỉ ít lâu sau đã sáng tạo ra một loại tranh kết hợp vài yếu tố họa pháp Tây với nghệ thuật sơn mài Việt truyền thống được cải tiến về kỹ thuật. Những bức tranh trông mới mà cũ, cũ mà mới, mà thực là tranh!

Ngoài sáng tạo, Nguyễn Gia Trí thỉnh thoảng có phát biểu nhận thức về hội họa.(3) Sau đây là một số phát biểu chúng tôi tình cờ được biết.

*

Tranh không có ý gì cả”. Cũng như hoa. Tưởng tượng ngắm hoa rồi bóp trán nặn óc nghĩ xem có ý gì!

“Vẽ để diễn tả ý là minh họa”. Minh họa là tạo hình vì ý. Không sao cả, cần thiết nữa. Chỉ cần nhớ vẽ tranh là tạo hình vì hình.

“Họa sĩ không làm việc để minh họa”. Họa sĩ vẽ vì hình chứ không vì ý. Bởi khi vẽ họa sĩ hoàn toàn tập trung vào hình chứ không bận bịu với cái không phải là hình, tranh đẹp “cao” hơn minh họa.

“Họa sĩ muốn (…) thấy cái tâm mình (…) nên mới vẽ”. Tâm đây hẳn là tâm hồn. Sau khi mắt thấy một hình ảnh, tâm hồn sẽ nẩy sinh một ấn tượng. Vẽ là vẽ cái ấn tượng của tâm hồn, chứ không phải cái hình ảnh mà mắt thấy. Vẽ thành công thì bất kể vẽ gì người ngắm cũng “thấy” tâm hồn của họa sĩ.

“Sáng tác có lúc như trong cơn mơ (…) Khi đã nghĩ mình vẽ trừu tượng, thì bức tranh lại không trừu tượng nữa. Lúc ấy sáng tác đã bị phân hai giữa tranh và người vẽ tranh”. Vẽ cụ thể là làm cho một cái hình có thật nào đó bỗng chứa tâm hồn người vẽ. Còn vẽ trừu tượng là làm cho tâm hồn người vẽ bỗng hiện ra thành một cái hình chưa có thật bao giờ! Vẽ cụ thể thì ngắm cái gì đó. Vẽ trừu tượng thì không ngắm cái gì cả mà chỉ ngắm tranh đang hiện ra, nên “như trong cơn mơ”. Hễ ý thức là mơ, thì không còn mơ nữa!

“Làm nghệ thuật điều chính yếu nhất là thành thật. Cái hại nhất là giả với chính mình”. Giả đây là cái chưa được mà bảo là được. Bảo với mình thôi, chứ chẳng có ai nghe hết. Vậy mà hại lắm. Bởi cứ giả thế thì chả có bao giờ làm nên cái được.

“Làm hàng trăm cái hỏng để lấy nửa cái được hoặc một cái được. Người nghệ sĩ không bao giờ thỏa mãn với chính mình”. Thấy “được” là thỏa mãn đấy chứ. Nhưng rồi phải muốn “được hơn”, vì nếu không thì tức là tự giới hạn thành đạt. Chuyện gì cũng vậy, riêng gì nghệ thuật.

“Chất liệu chiếm một nửa người nghệ sĩ. Phải yêu chất liệu, yêu như vợ mình thì mới có con là tác phẩm (...) Mỗi chất liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm được tính chất riêng của nó (...) Ví dụ độ dày mỏng trong sơn dầu. Sơn mài thì lại yêu cầu phẳng”. “Con vẽ” có khác con đẻ. Vì con đẻ thì yêu vợ hiểu vợ không ảnh hưởng gì đến ngoại hình của con. Trong khi con vẽ thì càng yêu càng hiểu vợ, con càng đẹp (không yêu không hiểu gì cả mà cứ, con sẽ xấu như ma!). Nhà văn nhà thơ nhà tượng v.v. ơi, nhớ đừng hững hờ với chữ với câu với gỗ với đá v.v. nhé.

“Một quan niệm, một đầu óc quá cổ điển không có lợi cho sáng tác (...) Không có qui tắc luật lệ nào cả (...) nghệ sĩ tự mình trói mình, bằng những thành kiến qui tắc nào đấy (...) Ngày xưa thầy tôi thường nhắc hãy coi chừng những thói quen”. Qui luật thì cố ý, thói quen thì vô tình, nhưng cùng là khung, khuôn. “Tác” theo khung khuôn, làm sao “sáng” được! Nói vậy, rồi nghĩ lại, thấy cũng không hẳn vậy. Lục bát cũ ơi là cũ, nên thôi làm chăng?! Còn thói quen, đó chẳng phải chính là cái làm nên phong cách riêng của mỗi nghệ sĩ hay sao? Thiết tưởng nên vừa tìm mới vừa không tránh cũ. Đừng quá cổ điển, nhưng cũng đừng quá cấp tiến. Khi mới khi cũ, mới thực là có lợi cho sáng tạo. (Một bài thơ làm thật đúng luật có thể không hay tí nào. Nhưng đâu phải cứ bỏ hết luật đi, thì thơ hay! Ðời xưa kẻ bất tài trốn trong cái cũ, trong kỷ luật. Đời bây giờ hắn nấp trong cái mới, trong tự do!)

“Thí nghiệm cần thiết (...) hàng vạn người họa chăng mới có một người tìm được một hạt kim cương”. Một quan niệm thẩm mỹ chào đời như một bé gái mới đẻ. Mỗi ngày trên thế giới biết bao nhiêu bé gái mới đẻ. Trong vô số đó, biết có được bé nào lớn thành hoa hậu... Không nên cứ thấy oe oe đỏ hỏn là tri hô “Ðẹp!”. Nhưng tất nhiên phụ nữ phải cố đẻ thì nhân loại mới mong có ngày có tân Tây Thi.

“Không có bức tranh nào gọi là xong cả. Tất cả đều là phác thảo”. Về thực hành, sửa tranh dĩ nhiên khó hơn hẳn sửa thơ văn. Thơ văn lúc nào cũng sửa được. Tranh vẽ đến lúc nào đó thì coi như không còn sửa được.

“Những sáng tác hội họa mới nhất của Mỹ và của Ý. Nhiều cái trông thật thì không biết thế nào (...) Nhiều khi các ông ấy chỉ làm minh họa những thuyết về khoa học (…)”. Tranh đích thực không minh họa cái gì cả. Dám chê Tây như Nguyễn Gia Trí, vào thời ông không có nhiều người đâu. Thời ấy cũng lâu rồi. Người dám chê Tây nay lại càng hiếm. Nay muốn nghe một ý kiến độc lập về bất cứ cái gì của Tây, hoặc đốt đuốc lên mà tìm người sống, hoặc thắp mấy nén nhang cầu hồn người chết.



Thu Tứ
Viết năm 2012
Sửa mới nhất 3-2023
















________
(1) Thái Bá Vân,
Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, 1997.
(2) Xem chẳng hạn, John Stevenson và John Guy,
Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition (Gốm Việt: Một Truyền Thống Riêng), nxb. Art Resources Media, Mỹ, 1997.
(3) Tất cả các trích dẫn đều từ:
-
Các bậc thầy hội họa Việt Nam, nxb. Mỹ Thuật, 1995.
- Thư gửi Phạm Tăng, đề ngày 24-1-1960, đăng trên tạp chí
Thế Kỷ 21, Mỹ, 2005.