Khuyết danh, “Chùa Thầy trọng Thánh…”





Tượng Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy - ảnh khuyết danh


Nằm gọn dưới chân một dải núi đá vôi hình vòng cung nổi lên giữa vùng đồng bằng xã Sài Sơn, chùa Thầy (Thiên Phúc tự) thuộc địa phận hai thôn Đa Phúc và Thụy Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, là một vùng non nước hữu tình (...)

Chùa Thầy có kiến trúc “tiền Phật, hậu Thánh” (...) ở vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 15 ngôi chùa (như vậy) nhưng chỉ có 5 chùa có kết cấu mặt bằng đích thực kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”, tức có kiến trúc riêng để thờ Thánh. Cùng với (...) chùa Keo (Thái Bình và Nam Định), chùa Bối Khê, chùa Tổng (Hà Tây cũ), chùa Thầy là một ví dụ điển hình cho lối kiến trúc này, tuy nhiên ít nhiều nó lại có những nét độc đáo riêng biệt.

Chùa hiện còn lưu giữ 7 tấm bia đá đều có niên đại vào khoảng thế kỷ 17, trong đó có một tấm bia “Hưng tạo sự công” dựng năm Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc xây dựng nơi thờ Thánh và tên người cúng ruộng công đức. Từ niên đại được ghi trên bia đá, và những vết tích trên kiến trúc, ta có thể hình dung rằng chùa Thầy vốn được xây dựng trên nền cũ đời Trần, chỉ đến khi có đợt trùng tu lớn vào thế kỷ 17, chùa mới có dạng “nội công ngoại quốc” như ngày nay. Cũng từ đợt trùng tu này, hai cụm kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh đã được tách thành hai công trình riêng biệt, đánh dấu sự ra đời chính thức của kiểu thức chùa “tiền Phật, hậu Thánh”.

Ngày nay, ở chùa Thầy mặc dầu chùa Phật và điện Thánh đã tách riêng nhưng vẫn được nối với nhau theo kết cấu hình chữ công. Đặc biệt, hầu như không giống với bất kỳ ngôi chùa “nội công ngoại quốc” nào khác, các nhà kiến trúc dân gian nơi đây khi dựng chùa đã tài tình làm ẩn mái tòa Thiêu hương nếu ta quan sát từ sân chùa. Do vậy ta dễ lầm tưởng rằng chùa được bố cục kiểu chữ tam. Không chỉ ngoại thất, những kết cấu chi tiết bên trong chùa cũng hết sức đáng lưu tâm. Bộ khung chùa được tạo nên bởi kiểu kết cấu hai loại vì kèo, kẻ chuyền và giá chiêng. Đây là một hình thức tương đối hiếm thấy so với những ngôi chùa cùng loại ở vùng đồng bằng Bắc Bộ (...)

Người ta đã đặc biệt quan tâm tới các vị Thánh không có xuất xứ từ Đạo giáo Trung Hoa mà là những người có công với nước, với dân (...) Như truyền thuyết về Dương Không Lộ khiến cho dân gian coi ông là tổ của nghề đúc đồng, làm nón, đánh cá, trị thủy (...) Từ Đạo Hạnh thì (...) còn được xem là ông tổ của nghề múa rối nước (...) đôi khi việc thờ Thánh ở đây lại được đặt ở một vị thế cao hơn việc thờ Phật. Ở chùa Thầy từ kiến trúc điện Thánh cho đến bài trí nội thất đều có phần trọng thị hơn nơi thờ Phật. Từ những chiếc nhang án, cho đến những khám thờ đều được làm rất công phu và có niên đại cổ nhất.

Chùa Thầy còn có tới ba pho tượng Từ Đạo Hạnh. Một được đặt tại nhà tổ, một ở bàn thờ chính và một đặt trong khám thờ tại điện Thánh. Trong đó, pho tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên được làm theo hình thức tượng rối đặt trong khám thờ là đáng chú ý hơn cả. Tương truyền, tượng này có những đốt khớp và một dây xích, khi mở khám ra tượng có thể đứng dậy… Khám này chỉ được mở mỗi năm một lần vào dịp lễ hội. Pho tượng này được tạo tác một cách đặc biệt như vậy nhằm đề cao vai trò của đức thánh Từ – vị thánh được nhân dân trong vùng tôn xưng như ông tổ của nghề múa rối nước. Điều đó cũng lý giải vì sao ngay phía trước chùa có một nhà thủy đình dùng để làm buồng trò cho các phường múa rối đến biểu diễn trong dịp lễ hội.

Ngày thường, chùa thường chỉ mở cửa phụ để du khách thập phương tới dâng hương thẳng vào điện Thánh mà không phải qua tiền đường thờ Phật. Tại đây điện Thánh được gọi là chùa Thượng còn nơi thờ Phật là chùa Trung, cách gọi này cũng có thể xem như một bằng chứng về việc trọng Thánh hơn Phật ở chùa Thầy.


(Trang
thuyngakhanhhoa.wordpress.com)