Nguyễn Tuân cầm bút, cả đời làm chỉ độ mấy câu thơ đặt chen vào giữa văn xuôi. Ngoại trừ duy nhất một lần này, Nguyễn đã viết hẳn trọn một bài thơ không ngắn. Ờ, đi thăm cái “cánh đồng lịch sử” ấy mà chỉ ký không thôi, hẳn thấy còn ấm ức. Đứng trước “bao la một giời chiến hào”, nghe “nấc lên những hơi mìn gỡ sót”, rồi giữa “nông trang khắc thâu”, nghe “mõ trâu, đui đạn đồng, lanh canh nhạc lạnh sương lồng giọt mơ”, mà không ít nhất “phác thảo” mấy vần thì làm sao vơi bớt cảm xúc về cảnh đây để lấy chỗ trong lòng mình cho cảm xúc Tây Bắc khác! “Đất cũ rưng rưng (…) / Mênh mông tiếng lúa (…)”... Mới có bốn năm, mà đã “xưa” thật rồi đấy nhỉ.

(Thu Tứ)


Nguyễn Tuân, “Giăng liềm”


(Phác thảo thơ)


Cát xuân cuốn lốc như năm nao
Bao la một giời chiến hào
Dài ngân trong gió Lào
Rụng cánh từng cánh hoa ban
Ngoài bến cỏ gianh lút đầu người
Nấc lên những hơi mìn gỡ sót
Vỡ hoang Cò Mỵ đánh gộc rừng
Âm âm động xích chiến xa hòa bình
Bãi xưa đèn hiệu thả dù
Đèn pha nay chạy máy cày đêm
Sân bay đất lật ngửa lên
Hầm pháo nặng thành hố phân xanh
Con chim bạt ngàn ngày xuân nọ
Trở về nở trứng giữa chân ruộng mạ
Khu trục gỉ cánh quạt chìm dần
Sóng lúa Hồng Cúm vồng ngọn cao
Nông trang khắc thâu
Mõ trâu
Đui đạn đồng
Lanh canh nhạc lạnh sương lồng giọt mơ
Hơi may ngọt nhờ nhờ
Đêm cỏ đầm đầm sữa vắt
Loang khắp cánh rừng Mường Theng
Trong nắng mai bừng lên
Như sôi hơi một nồi cơm khổng lồ
Chào reo lúa tẻ vụ đầu
Phía cầu Nậm Rốm
Có anh bộ đội yên tâm sản xuất
Thả nhẹ vào lòng sông chiều
Một chiếc liềm vàng


Nghiêng nghiêng giăng liềm
Vàng thiếp lên vàng
Trên lúa rỗ đồng Mường Thanh
Một mùa thu lao động hòa bình
Treo lên một giời xanh
Điện Biên chiều về nguyệt bạch
Kim tuyến thêu hình liềm vàng
Láng đi láng lại hào quang
Trên lúa đỏ nông trường


Ngợp trong bụi lửa
Bốn năm xưa Điện Biên
Giăng liềm gác lên nòng súng khói
Đất cũ rưng rưng chiều sa trường
Mênh mông tiếng lúa nông trang
Cánh đồng lịch sử
Biên tuyến xanh ngắt xanh
Lồ lộ chiếc liềm vàng.


4 – 10 - 1958


(Trong tập
Sông Đà, nxb. Tác Phẩm Mới, 1978)