Hoàng Cầm cho biết mình có những bài thơ bắt đầu “từ ngoài tôi”. Bài đầu tiên thuộc loại ấy là “Bên kia sông Đuống”. Nhiều năm sau, thi sĩ có dịp kể hoàn cảnh ra đời của thi phẩm gây thật nhiều xúc động. (TT)



Hoàng Cầm, “Bên kia sông Đuống”




“Ðến đầu tháng 4/1948 thì giặc Pháp đã chiếm hết các huyện bờ nam sông Ðuống từ Gia Lâm đến tận Phả Lại (...)

Anh Trà báo cáo (...) nói tỉ mỉ nhất về cảnh tượng làng Hồ (Lạc Thổ) của tôi trong những ngày chiến đấu ác liệt với địch...

Tôi càng nghe bụng dạ càng cồn cào xao động. Có lúc (...) muốn bật khóc, có lúc (...) run run lên vì căm giận và thương cảm (...) gà gáy nửa đêm (...) tôi về đến nhà (...) bụng như trống rỗng mà đầy lửa, như cô quạnh mà lại như có nhiều gót chân đang chạy miết, đang giày đạp (...) tôi (...) bó gối ngồi nhìn trừng trừng vào bức vách (...) Một lúc lâu (...) những hình ảnh (...) hiện lên bức vách (...) quay vòng nhường chỗ lẫn cho nhau (...) khuôn mặt dầu dãi của mẹ tôi, có các bộ mặt khác như đậu chênh vênh vào đấy: vợ tôi, các con tôi (...) rồi (...) các hình ảnh âm thanh về một quá khứ xa... rất xa (...) Tâm trí tôi dần dần tĩnh lại (...) Ðột nhiên, như từ thôn xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như tiếng ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo, nghe rõ mồn một, nhưng lại như nghe từ lúc tôi còn thơ dại:

“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Ðuống
Ngày xưa... cát trắng phẳng lì” (…)

Tôi vội vàng ghi ngay, rất nhanh, sợ nó tan biến mất. Ghi được ba dòng ấy thì hệt như người đào đất thăm dò mạch nước ngầm, chợt có đôi ba tia nước trong vắt phun lên, thế là tôi viết tiếp ngay những lời đang tuôn ra, bật ra, tung tóe ra từ trong lòng mình (...) Tôi cắm đầu ghi lia lịa (...) sợ không theo kịp từng điệu, từng lời đang rộn rã, năn nỉ hoặc than vãn trong tâm can mình. Có lúc tôi như nín thở. Có lẽ tôi không được ngừng bút một phút nào hay sao ấy, mặc dầu về sau đọc lại mới nhận ra đoạn này, đoạn khác, có vẻ như bố cục, chứ thực ra trong khoảnh khắc dào dạt ấy tôi không bố cục gì, không lập ý, không cấu tứ gì cả, đến từ ngữ cũng tự nhiên bật ra theo dòng chảy của cảm xúc, không một phút nào phải ngẫm nghĩ, lựa chọn, cân nhắc câu thơ.

Ðúng là tôi đã viết một mạch dài sau ba dòng vang vọng như từ trời xa xanh rót xuống trang giấy. Khi thấy trong người như vợi đi, ba bề bốn bên cũng không còn một âm vang gì nữa, tôi chợt rùng mình vì cái lạnh buổi sáng”. (Hoàng Cầm tác phẩm - Văn xuôi, nxb. Hội Nhà Văn, 2004)


Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Ðuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Ðuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Ðứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Ðuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Ðông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
         Ruộng ta khô
         Nhà ta cháy
         Chó ngộ một đàn
         Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Ðám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Ðuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già bay tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu... Về đâu...

Ai về bên kia sông Ðuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Ði bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Ðồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu... về đâu...

Bên kia sông Ðuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Ðuống về đâu...
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Ðường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ


Bên kia sông Ðuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Ðêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Ðã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Ðêm buông xuống dòng sông Ðuống
- Con là ai - Con ở đâu về

Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng

Ðêm đi sâu quá lòng sông Ðuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn

Ăn không ngon
Ngủ không yên
Ðứng không vững
Chúng mày phát điên

Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa

Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ chiều xưa
Căm căm gió rét mịt mờ mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hồn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Ðừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Ðừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Ðể con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Ðuống cuồn cuộn trôi
Ðể nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Ðuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.