Đoàn Thị Tình, Yếm, váy, áo





ảnh TT



ảnh khuyết danh



ảnh khuyết danh




Yếm là một miếng vải vuông đặt chéo trên ngực người mặc. Ở một góc (trên) khoét hình tròn làm cổ yếm (loại yếm này có tên là yếm cổ xây) hay khoét hình chữ V (gọi là yếm cổ xẻ hay yếm con nhạn). Thường là xẻ nông nhưng cũng có loại xẻ sâu xuống dưới. Ở góc nhọn cổ yếm cổ xẻ (đáy chữ V) có ba đường khâu nổi như hình chân chim nhằm giữ cho cổ yếm lâu bị rách, đồng thời để trang trí. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy. Hai dải ở hai góc bên cạnh sườn buộc ra sau lưng. Có loại yếm, hai dải này là hai miếng vải hình tam giác dài vắt chéo ngang ở sau lưng rồi lại buộc ra phía trước. Hình thức loại yếm này kín cả ngực, bụng và một phần lưng, do đó người phụ nữ có thể không mặc áo ngoài.

Váy (có nơi ở bắc Trung bộ gọi là mấm) thường mặc ngắn đến ống chân. Khi làm ruộng, xắn váy cao lên trên đầu gối rồi buộc túm gấu váy trước và sau vào nhau. Họ thường quấn thắt lưng bằng vải màu (ở nhiều vùng gọi là bao) một hoặc rất nhiều vòng ngoài cạp váy. Hoặc có khi cùng một lúc họ dùng hai thắt lưng khác màu. Khi làm việc đầu thắt lưng giắt gọn lên cạp váy cho đỡ vướng.

Vào mùa rét, khi làm việc phụ nữ nông thôn thường mặc thêm (nghĩa là ngoài yếm) tấm áo cánh hoặc mặc một kiểu áo cộc tay bằng vải thô, buộc một sợi dây quanh bụng cho gọn gàng. Để chống rét có thể mặc cả áo tơi, vốn chủ yếu để chống mưa. Áo dài (tứ thân), có loại áo hai vạt phía trước đều nhau, buông thả xuống, không cài khuy. Hoặc buộc hai vạt ấy vào nhau gọi là áo buộc vạt. Hoặc buộc quặt hai vạt ấy ra sau lưng cho gọn. Trường hợp mặc áo buông vạt, người phụ nữ bao giờ cũng mặc yếm cổ xây cho kín đáo. Ngoài ra còn có loại áo năm thân: vạt ngoài (còn gọi là vạt cả, bên trái người mặc) rộng gấp đôi vạt trong (còn gọi là vạt trong, bên phải), không cài khuy cạnh sườn (như áo dài tân thời) mà dùng thắt lưng thắt ngang bụng. Hễ mặc áo dài, bao giờ cũng thắt thắt lưng màu nổi bật buông xuống phía trước.

(Ðoàn Thị Tình, Tìm hiểu trang phục Việt Nam (dân tộc Việt), nxb. Văn Hóa, 1987)




ảnh Đặng Trần Quân



ảnh TT



ảnh Nguyễn Thong Dong