“Bàn về chương Tiêu dao du”

Nguyễn Hiến Lê




Lão tử và Trang tử là hai triết gia làm tốn giấy mực cho đời sau nhiều nhất: mỗi nhà ít gì cũng được cả trăm người khác chú giải. Một phần là vì triết thuyết của họ rất sâu sắc, ảnh hưởng tới tư tưởng và đời sống Trung Hoa. Nhưng nguyên nhân chính là văn của họ cô đọng quá, hàm súc quá, có thể hiểu được nhiều cách, nhiều chỗ không ai biết chắc được họ muốn nói gì, đành phải suy đoán. Hai bộ Đạo Đức kinhNam Hoa kinh so với hai bộ Luận ngữMạnh tử về phương diện sáng sủa thực khác nhau xa quá: một bên mù mờ bao nhiêu, một bên sáng sủa bấy nhiêu.

Tóm tắt ý chính trong chương này, Diệp Ngọc Lân dẫn lời của Vương Tiên Khiêm (tức Vương Ích Ngô, một triết gia đời Thanh), cho “tiêu dao tự tại là siêu thoát ra ngoài thế vật, theo lý thiên nhiên”. Ý đó giống ý của Quách Tượng (học giả đời Tấn, tự là Tử Huyền, cùng với Hướng Tú là những người đầu tiên chú giải NHK) trong câu này: “Vật tuy lớn nhỏ khác nhau (…) nhưng mỗi loài cứ theo thiên tính của mình, làm theo khả năng của mình… thì là tiêu dao". “Theo lý thiên nhiên” hay “theo thiên tính” thì cũng vậy.

Nhưng Hoàng Cẩm Hoành lại bác ý của Quách Tượng, cho tiêu dao là “vô vi”, vì Hoàng căn cứ vào câu “Bậc chí nhân thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh” ở cuối bài 1.

Vương Phu Chi (tức Vương Thuyền Sơn, một triết gia danh tiếng đời nhà Thanh) cũng cho rằng phải theo thiên tính của mình (như con chim cưu chỉ bay lên ngọn cây, có khi còn không tới, mà không vì vậy ganh tị với con chim bằng, bay cao được tới chín vạn dặm), nhưng lại chú trọng tới điều kiện này là không phải tùy thuộc cái gì (vô sở đãi) thì mới thực thảnh thơi. Con chim bằng phải tùy thuộc lớp không khí dầy ở dưới nó; Liệt tử cưỡi gió mà bay thật nhẹ nhàng, khoan khoái, nhưng vẫn phải tùy gió nổi lên mới bay được, như vậy chưa thực là tiêu dao. Hễ còn tùy thuộc một cái gì thì chưa được hoàn toàn tự do, làm sao mà thảnh thơi được? Liou Kia hway chắc cũng nghĩ như Vương Phu Chi nên dịch “Tiêu dao du” là “liberté naturelle” (sự tự do thiên nhiên).

Như vậy chúng ta đã có ba điều kiện của sự tiêu dao tự tại rồi:

- Phải thuận thiên tính.

- Không tùy thuộc một cái gì (phải được hoàn toàn tự do).

- Vô vi (không lập công, không cầu danh, quên mình đi, tức siêu thoát ra ngoài thế vật để khỏi tùy thuộc thế vật). Như Hứa Do trong bài 2 là đã tiêu dao; vua Nghiêu trong bài đó chưa tiêu dao, nhưng trong bài 3, khi ở núi Cô Dạ về, chịu ảnh hưởng của bốn vị thần nhân mà quên mất thiên hạ của mình, lúc đó mới được tiêu dao. Quan niệm vô vi này Trang đã mượn của Lão mà còn tiến xa hơn Lão nữa.

Theo tôi còn thêm một điều kiện nữa.

- Muốn được tuyệt đối tiêu dao thì phải hoà đồng với vạn vật, như các thần nhân trên núi Cô Dạ (bài 3), lúc đó sẽ chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên (bài 1), nước lửa đều không làm hại mình được (bài 3). Tôi ngờ rằng Trang tử ở đây đã chịu ảnh hưởng của Liệt tử.

Bốn điều kiện kể trên là ý chính trong chương này. Ngoài ra còn vài ý phụ nữa, như vô tài thì toàn mệnh được, như cây xư (bài 5), tiểu trí không hiểu được đại trí, như con ve sầu, con chim cưu, con cút cười con chim bằng (bài 1), khéo dùng vật thì không vật nào là vô dụng (bài 4,5) và chỉ hạng đại trí mới biết dùng những vật tầm thường vào những việc lớn (bài 4).


(Nguyễn Hiến Lê,
Trang tử và Nam Hoa kinh)