“Trang sống cái triết mình”

Nguyễn Hiến Lê




Dưỡng sinh

Trang còn chỉ ta cách dưỡng sinh để vui hưởng hết tuổi trời; đây là một phần độc đáo trong học thuyết của ông, ai cũng có thể áp dụng được (...)

Trang tử (...) quí sinh (...) vì quí (...) nên phải dưỡng (...)

- Qui tắc đầu tiên của dưỡng sinh là thuận thiên. Một phần lớn triết học của Trang dựng trên hai chữ thuận thiên đó (...) bài III.2 kể cách mổ bò của người bếp của vua Văn Huệ. Người đó hiểu cơ cấu thiên nhiên của con bò, tránh những gân, xương, chỉ lách lưỡi dao vào những kẽ, nhờ vậy mà không tốn sức, không mòn dao. Cách đó là cách tiếp vật mà cũng là cách dưỡng sinh, vì cơ thể của ta cũng là “vật”. Ta phải hiểu cơ cấu của nó, hiểu các bộ phận cần những gì, hoạt động ra sao để điều khiển nó cho hợp với tự nhiên, chứ không mù quáng chống đối nó. Chẳng hạn bị nóng, hoặc khi đi tả nhiều lần, khát nước thì cứ uống; khi không thèm ăn thì cứ nhịn ăn, khi làm việc mệt mỏi thì phải tịnh dưỡng, đừng cố sức làm tới kiệt quệ. Khi đau ốm thì tốt nhất là nghỉ ngơi, ăn ít, để cơ thể tự chống với bệnh, thuốc chỉ giúp cơ thể thôi, không nên dùng nhiều. Bài học đó của Trang thời nào cũng nên nhắc lại, nhất là thời nay người ta bắt thể xác và tinh thần làm việc nhiều quá, dùng thuốc cũng nhiều quá.

Thuận thiên cũng có nghĩa là sống gần thiên nhiên, ăn những thức ăn thiên nhiên, đừng làm trái thiên nhiên: chúng ta ngày nay sống chen chúc trong các thành phố thiếu không khí và nước trong sạch, ăn những thực phẩm bón bằng phân hoá học, phun bằng những thuốc sát trùng, cũng trái với thiên nhiên nữa (...)

Thuận thiên còn có nghĩa thứ ba nữa là an thời xử thuận để cho rầu, lo, nghĩ, giận ghét không xâm nhập tâm hồn, làm thương tổn tính tình, như vậy mới thảnh thơi tiêu dao được. Lo nghĩ làm gì khi ta không biết được hoạ ở đâu, phúc ở đâu, có khi phúc đó mà là hoạ, hoạ đó mà là phúc (...)

- Qui tắc thứ nhì để là bỏ hết dục vọng, ngay cả lòng ham học hỏi hoặc làm điều thiện cũng vậy. Bài III.1, Trang tử viết:

“Đời người có hạn mà tri thức thì vô cùng. Đem cái có hạn mà chạy theo cái vô cùng thì tinh thần phải mệt mỏi; đã mệt mỏi mà vẫn không ngừng thì sẽ chết mất. Làm điều thiện thì bị luỵ vì danh tiếng, làm điều ác thì chịu khổ vì hình phạt (...)”.

Không ham danh lợi để sống được an nhàn (...) An nhàn quí (...) tự do còn quí hơn: con trĩ ở trong chằm tuy phải khó nhọc kiếm thức ăn (...) mà không chịu bị nhốt để người ta nuôi vì như vậy tuy được an nhàn nhưng mất tự do.

Xử thế

Phép xử thế của Trang (...) là qui kết từ vũ trụ luận của ông (...)

Bài II.3 ông bảo: “Vật nào cũng là vật khác mà cũng là chính nó. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hoà đồng với vật thì thấy được”.

Không phân biệt người và ta, tức là “hư kỉ” hay “vô kỉ”, đó là qui tắc đầu trong phép xử thế. Coi người nào cũng bình đẳng và để cho mọi người được tự do, như vậy không xích mích với ai cả, không làm thiệt hại cho ai cả, và mọi người sẽ vui vẻ với mình (...)

Qui tắc thứ nhì để xử thế cũng là “thuận thiên”, tức theo thiên tính của mỗi người, hoà hợp với người (...)

Nhan Hạp được vời làm sư phó cho thái tử của Vệ Linh Công, một thanh niên tàn bạo, ngại nếu ngăn cản nó thì nguy cho tánh mạng mình, mà không ngăn cản nó thì không làm tròn nhiệm vụ sư phó, nên lại vấn kế Cừ Bá Ngọc. Cừ Bá Ngọc khuyên (...) “Học trò ông còn là một đứa con nít thì ông cũng làm ra vẻ con nít với nó; nó hành động không có phép tắc, ông cũng làm bộ không giữ phép tắc với nó; nó phóng đãng, ông cũng làm bộ phóng đãng với nó; như vậy ông lần lần sửa đổi được nó”. Nghĩa là phải theo thiên tính của nó mà uốn nắn mỗi ngày một chút, chứ nếu cương quyết, nóng nảy, xúc phạm nó thì sẽ như con bọ ngựa đưa càng lên mà mong cản được xe (...)

Bài I.5 (...) bảo cây “xư” to lớn mà không bị đốn vì gỗ nó vô dụng, mà con li tinh (một loại cầy) có tài rình mồi nên chết vì bẫy, vì lưới (...) Tuy nhiên, ở cuối bài 4, Trang cũng hé cho ta thấy rằng vô dụng chưa nhất định là được yên ổn (...) Rốt cuộc, hữu dụng đã không yên mà vô dụng cũng chưa chắc được yên, vậy phải ra sao? (...)


(Nguyễn Hiến Lê,
Trang tử và Nam Hoa kinh)