|
Nguyễn Du, “Văn tế thập loại chúng sinh”
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt Toát hơi may lạnh buốt xương khô Não người thay buổi chiều thu Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác Ngọn đường lê lác đác mưa sa Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất Xót khôn thiêng phảng phất u minh Thương thay thập loại chúng sinh Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa Phận bồ côi lần lữa đêm đen Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói ai hiền ai ngu Tiết đầu thu, dựng đàn giải thoát Nước tĩnh bình rưới hắt dương chi Muôn nhờ Phật lực từ bi Giải oan cứu khổ, hồn về Tây phương Nào những kẻ tính đường kiểu hạnh Chí những lăm cướp gánh non sông Nói chi đang thủa thị hùng Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu tro bay ngói giỡ Khôn đem mình làm đứa thất phu Cả giàu sang, nặng oán thù Máu tươi lai láng, xương khô rã rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc Quỷ không đầu van khóc đêm mưa Ðã hay thành bại là cơ Mà u hồn biết bao giờ cho tan
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ Những cậy mình cung Quế Hằng Nga Một phen thay đổi sơn hà, Tấm thân mảnh lá biết là làm sao Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy Phận đã đành trâm gãy bình rơi Khi sao đông đúc vui cười Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Thảm thiết nhẽ không hương không khói Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim Thương thay chân yếu tay mềm Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu
Nào những kẻ mão cao áo rộng Ngọn bút son thác sống ở tay Kinh luân chất một xải đầy Đã đêm Quản Cát, lại ngày Y Chu
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm Trăm loài ma xắm nắm chung quanh Nghìn vàn khôn chuộc được mình Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước Biết lấy ai bát nước nén hương Cô hồn thất thưởng dọc ngang Nặng oan, khôn lẽ tìm đường hóa sinh Nào những kẻ bài binh bố trận Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung Gió mưa thét rống đùng đùng Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc Bãi sa trường thịt nát máu trôi Bơ vơ góc bể chân trời Nắm xương vô chủ biết vùi vào đâu Trời xâm xẩm mưa gào gió thét Khí âm ngưng mù mịt trước sau Năm năm sương nắng dãi dầu Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường
Cũng có kẻ tính đường trí phú Làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn Ruột rà không kẻ chí thân Dẫu làm nên nữa, dành phần cho ai
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ Của phù vân dẫu có như không Tuy rằng bạc chảy tiền dòng Khi đi mang được một đồng nào đi Khóc ma mướn thương gì hàng xóm Hòm gỗ đa, bó đóm đưa đêm Thẩn thơ nội rộc đồng chiêm Tàn hương giọt nước biết tìm vào đâu Cũng có kẻ muốn cầu chữ quý Giấn thân vào thành thị bôn ba Mấy thu lìa cửa lìa nhà Văn chương đã chắc đâu mà trí thân Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng Anh em: thiên hạ, láng giềng: người dưng
Bóng tang tử xa chừng hương khúc Bãi tha ma kẻ dọc người ngang Cô hồn nhờ gửi tha hương Gió trăng heo hắt, khói hương lạnh lùng
Lại có kẻ vào sông ra bể Cánh buồm dơi chạy xế gió đông Gặp cơn giông tố giữa dòng Đem thân vùi rập vào lòng kình nghê
Lại có kẻ đi về buôn bán Đòn gánh tre chèn đắn hai vai Gặp cơn mưa nắng, trở trời Hồn đường sá, biết lạc loài vào đâu Lại có kẻ mắc vào ngũ lính Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan Nước bầu cơm ống gian nan Dãi dầu muôn dặm, lầm than một đời
Trong chiến trận mạng người như rác Thân đã dành đạn lạc tên rơi Lập lòe ngọn lửa ma trơi Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương
Lại có kẻ lỡ làng một tiết Liều tuổi xuân bán nguyệt buôn hoa Ngẩn ngơ khi trở về già Ai chồng con nấy, biết là cậy ai Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đa Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu Lại có kẻ nằm cầu gối đất Dõi những ngày hành khất ngược xuôi Thương thay cũng một kiếp người Sống nhờ hàng xứ, thác vùi đường quan
Lại có kẻ mắc oan tù rạc Gửi thân vào chiếu lác một manh Gói xương chôn rấp góc thành Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi
Lại những kẻ tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha Lấy ai bồng bế vào ra Ư - ư tiếng khóc xót xa nỗi lòng
Cũng có kẻ đắm sông chìm suối Cũng có người sẩy cũi ngã cây Có người leo giếng đứt dây Người trôi nước lụt, người lây cháy thành Người thì mắc sơn tinh thủy quái Người thì lăm răng khái ngà voi Có người có đẻ không nuôi Có người sinh sẩy, mệnh người gian nguy
Mắc phải lúc đường đi lỡ bước Cầu Nại Hà kẻ trước người sau Mỗi người một nghiệp khác nhau Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ Hoặc là ẩn dọc bờ dọc bụi Hoặc là nương ngọn suối chân mây Hoặc là bãi cỏ lùm cây Hoặc là cầu nọ quán này bơ vơ
Hoặc là tựa thần từ Phật tự Hoặc là quanh đầu chợ cuối sông Hoặc là trong quãng đồng không Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết Dạ héo khô, gió rét căm căm Dãi dầu biết mấy trăm năm Khóc than dưới đất, ăn nằm trong sương Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn Tắt mặt trời, lẩn thẩn tìm ra Lôi thôi ẵm trẻ dắt già Có khôn thiêng hỡi, lại mà chứng minh
Nhờ Phật lực siêu sinh Tĩnh độ Phóng hào quang cứu khổ độ u Khắp trong tứ đại bộ chu Não phiền thoát sạch, oán thù rửa trong Ðạo Vô thượng thần thông quảng đại Chuyển pháp luân tam giới thập phương Nhơn nhơn Tiêu diện quỉ vương Linh kỳ một lá dẫn đường độ sinh Nhờ Phật lực uy linh dũng mãnh Trong giấc mê, phút tỉnh chiêm bao Mười loài là những loài nào Gái trai già trẻ cũng vào nghe kinh
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh Có câu rằng: Vạn cảnh giai không Ai ơi lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi Đàn chẩn tế theo lời Phật giáo Vật có gì, lưng cháo nén hương Gọi là manh áo thoi vàng Giúp cho làm của ăn đàng siêu thiên Ai tới đó, dưới trên ngồi lại Lấy chút lòng, chớ ngại bao nhiêu Phép thiên biến ít ra nhiều Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi tế độ Chớ ngại rằng có có chăng chăng Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài
(Bản Hoàng Xuân Hãn, nxb. An Tiêm, Pháp, 1995)
|
|