Ta đã thu được từ phương nam một món quý quá. Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 2004), chiêm là “sinh không đúng mùa, trái mùa (ví dụ) na chiêm, ổi chiêm)”. Chắc đây là nghĩa rộng về sau mới có. (TT)



Trần Ngọc Thêm, “Lúa chiêm, lúa Chiêm”




Cây lúa cần nhiều nước nên ban đầu, chỉ có một vụ lúa vào mùa có nhiều mưa (hè thu) gọi là lúa mùa. Về sau có thêm loại lúa có khả năng chịu hạn vào mùa khô (đông xuân) gọi là lúa chiêm. Lúa chiêm xuất xứ từ Chiêm Thành khô hạn nên có câu thành ngữ Chiêm Nam, mùa Bắc, và tên gọi "lúa chiêm" chỉ phổ biến ở phía Bắc, còn miền Trung thì hầu như không dùng.


(Trần Ngọc Thêm,
Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. TPHCM, 2001)