“Bao chiến sĩ anh hùng
Lạnh lùng vung gươm ra sa trường
Quân xung phong, nước Nam đang chờ mong...”(1)

“Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
... hình dáng của người anh hùng...”(2)

“Một sườn núi xanh
Một nấm mồ nằm trong bát ngát
Tôi muốn biết tên anh
Người chiến sĩ vô danh
Ðã làm nên tổ quốc...”(3)

Ðâu phải từ không mà có nhạc có thơ như trên. Và có văn như truyện Nguyễn Ðình Thi.

(Thu Tứ)

(1) Ca khúc Chiến Sĩ Việt Nam của Văn Cao.
(2) Ca khúc Chiến Sĩ Vô Danh của Phạm Duy.
(3) Bài thơ Vô Danh của Chính Hữu.




Nguyễn Đình Thi, Đại đội trưởng Còm (2)



Buổi trưa mùa thu hiu hiu trong khu rừng cổ thụ. Ðăng rẽ vào cổng trại giải phẫu. Trong khoảng rừng đã phát quang đãng, mấy mái nứa vừa dựng lên còn trắng. Ðất quét sạch đỏ tươi. Phòng giải phẫu ở giữa, trần làm bằng tấm vải dù vàng chói, chiến lợi phẩm trận Lũng Phầy mùa xuân. Ðăng không ngăn được một tiếng ngạc nhiên:

- Ồ, tươi quá nhỉ.

Hai người bước thẳng vào chỗ Hòa. Hòa đang nằm đọc sách có vẻ tỉnh táo. Một anh y tá chạy đến. Ðăng nhìn quanh và bắt chuyện với anh ta.

- Ở đây cũng rộng đấy chứ anh nhỉ.

- Vâng, chúng tôi vừa cho đưa một số anh em về bên kia đường. Ðể dành chỗ cho mai kia.

Ðăng cười về câu nói ngộ nghĩnh mà tự nhiên ghê người. Còm ngồi bên cạnh Hòa, ngăn không cho Hòa dậy.

- Anh cứ nằm. Hôm nay ra sao?

Anh chính trị viên mở to đôi mắt:

- Ðã khá nhiều. Có lẽ bốn năm hôm nữa thì cái tay ổn hẳn. Không phải mổ lại.

Mắt Hòa lóng lánh, đen như mắt con gái:

- Chiều mai đấy phải không?

Còm gật.

Hòa lại hỏi:

- Thế nào?...

Còm cười:

- Cũng có thể gay nhưng chắc được.

Hòa ngửa mặt trên ba-lô dùng làm gối, môi mím chặt.

- Thôi được, để đến chuyến sau mình sẽ dậy. Chiều mai lại tha hồ đợi súng các cậu.

Còm quay lại, mắt tìm Ðăng... Anh đại đội phó đang cùng người y tá đi thăm mấy đồng chí bị thương nằm ở các gian chung quanh. Còm móc túi ra một bao Cô-táp quăng lên đầu giường Hòa:

- Quà phục kích của Lạng Sơn. Họ vừa thắng một mẻ to. Anh em thi đua mệt đấy.

Hai người im lặng hút thuốc. Khu bệnh viện tĩnh mịch, chim hót véo von trong những vòm cây trám trên cao. Còm đứng dậy:

- Thôi mình đi.

Hòa chìa tay trái bắt tay Còm. Anh đại đội trưởng để bạn giữ tay mình lâu lâu. Hòa cười xanh xao.

Còm cũng cười. Ðăng ở ngoài bước vào:

- Về rồi kia à! Ừ cũng phải về, muộn rồi.

Ðăng nán lại nói với Hòa mấy câu chuyện. Còm đã ra ngoài lững thững đi trước. Anh nghĩ: "Trận này là trận đầu hai thằng thiếu một đây. Ðăng còn hơi non. Nhưng rồi cũng già dặn ngay. Nó hăng và gan là tốt rồi.

*

Bộ đội bắt đầu qua sông từ bốn giờ sáng. Hơn một chục cái bè tập trung từ nửa đêm ở cái bến nhỏ làng Nà Ngượm. Trong sương mù dày đặc, mấy chục bó đuốc tỏa những vùng sáng tròn, chạy đi chạy lại. Bộ đội từng hàng dài trên các ven rừng kéo xuống.

Ðại đội 112 ra tới bờ sông lúc gà gáy. Ðó là đơn vị qua sông cuối cùng. Về sáng sương càng đặc, những tảng đá nhìn trong sương thành những hình thù con ngựa, con chim ngộ nghĩnh.

Còm đứng ở bờ sông, cắn răng lại xuýt xoa, rét cứng người. Sương lạnh như thấm buốt tận trong những thớ thịt. Ðêm qua ở lán rét, Còm nằm co quắp ngủ chập chờn. Gần sáng thiếp đi, lúc chú Tịnh gọi, Còm mới choàng dậy, bây giờ hai mắt vẫn cay xè... Có tiếng nói đằng sau:

- Anh hút thuốc lá không? Rét quá.

Còm quay lại. Ðăng từ trong sương đi ra. Hôm nay Ðăng đội mũ sắt, quai mũ buộc dưới cằm, kiếm gài bên hông, trông càng thêm cao lớn. Hai người cuộn thuốc, tay lóng ngóng mãi mới xong. Còm châm thuốc, thổi khói từng hơi dài. Ðăng trỏ tay về những bè chở bộ đội thấp thoáng trên mặt nước trong những khoảng sương bị gió xé ra, và bảo Còm:

- Anh trông kém gì cảnh Hồng quân qua sông trong phim.

Còm nhìn những anh đội viên ngụy trang kín người, lố nhố trên những chiếc bè ẩn hiện trong khoảng sương mù dưới chân. Ðã bao nhiêu buổi anh cùng anh em ra trận, mỗi buổi xuất phát một khác, không lần nào giống lần nào, nhưng lần nào Còm cũng cảm thấy có cái gì nôn nao trong người. Hôm nay, đứng trên bờ con sông đầy sương mù ở tít cùng trên rừng núi, Còm bỗng nhớ lại những buổi sáng sớm, cả Hải Phòng còn ngủ yên, anh lái chiếc ca-nô đi Quảng Yên, Hồng Gai, ra đến dòng sông Cửa Cấm, sau lưng anh những ống khói của nhà máy xi-măng phun khói ngập một góc trời. Trên bến Sáu Kho, những cần trục như những cánh tay gầy guộc in bóng xuống nước. Còm lại muốn được thấy Hải Phòng quá, anh lại muốn được thấy mặt trời lên nhuộm đỏ những cánh buồm nâu lớn san sát ở các dãy bến... Một cơn gió thổi mạnh trên mặt nước làm anh đại đội trưởng như tỉnh hẳn ra. Còm lại nhìn những chiếc bè đang tấp nập chở bộ đội qua sông. Anh thấy yêu cái bến sông nhỏ này quá. Sáng mai, khi bộ đội lên bè trở về, không biết anh có còn không, để nhìn lại một lần nữa cái bến sông này. Còm mỉm cười một mình xua đuổi ý nghĩ ấy. Mỗi lần ra trận, anh lại có cái linh tính là mình sẽ chết, nhưng lần nào anh cũng trở về như thường! Bên cạnh Còm, Ðăng cũng đang say sưa nhìn cảnh bộ đội qua sông. Từ hơn một tháng nay, về đại đội 112, đại đội “mũ sắt” nổi tiếng khắp trong trung đoàn, Ðăng thấy trách nhiệm mới đè nặng lên vai anh, và đồng thời lúc nào trong lòng anh cũng có cái gì hớn hở, tự hào. Ai không biết đây là đại đội chủ công, những nhiệm vụ khó khăn, quan trọng nhất là phần của nó. Cán bộ thường nói đùa với nhau: về đấy không trước thì sau cũng “đổ”! Cái vinh dự là một người đi đầu vào những nơi nguy hiểm nhất làm cho Ðăng thấy mình như lớn lên. Hồi mới về đại đội, mỗi lần ra một mệnh lệnh cho cán bộ cấp dưới, hoặc nói chuyện với một chiến sĩ nào, Ðăng lại cảm thấy như mình chưa đủ quyền đứng nói trước những người đã bao lần vào sống ra chết. Rồi dần dần Ðăng đã quen hơn với đại đội 112. Nhưng Ðăng vẫn thấy hình như chỉ có qua một vài trận đánh, Ðăng mới có thể làm cho các chiến sĩ 112 nhận hẳn anh là người chỉ huy của họ. Từ hơn một tháng nay, Ðăng chờ đợi ngày ra trận này. Ðôi lúc, một nỗi lo sợ vẩn vơ hiện ra trong lòng Ðăng, nhưng anh lại dẹp nó đi và nghĩ: không đánh trận này cho ra trò thì đừng hòng chỉ huy ai! Một ý nghĩ vui vui bỗng thoáng qua: Giá Bích thấy cảnh qua sông hôm nay! Chắc Bích không thể tưởng tượng được bộ đội ta xuất trận đẹp như thế này! Ðăng khẽ huýt sái. Còm quay lại, nhìn đồng hồ tay, và bảo bạn:

- Hơn năm giờ. Các ông cụ chở bè chắc mệt lắm. Thôi đến lượt đại đội mình rồi. Ta xuống đi.

Hai người đi theo mấy anh đội viên vừa tới.

Dưới bến, các tiểu đội tụm vào nhau từng đám, đứng đợi. Ðăng chạy đi chạy lại, tiếng ra mệnh lệnh át tiếng ồn ào:

- Trung đội hai lên bè! Anh Còm lên đây.

Một anh đội viên cành lá tua tủa trên mũ, trên vai, nhìn Còm, hơi cười. Còm vỗ vai anh ta:

- Thế nào đồng chí Dưỡng, định hôm nay xỉa mấy Tây?

Dương nhe răng cười không trả lời, né lưỡi mác sang một bên để nhường chỗ cho anh đại đội trưởng đi qua. Ông cụ chở bè cũng chống sào đứng cười. Còm đến mời cụ một điếu thuốc lá.

Chiếc bè từ từ ra giữa sông. Nước chảy xiết, thân bè kêu kọt kẹt. Ðăng đứng ở đằng mũi, nhìn con sông chảy cuồn cuộn giữa hai bờ núi cao, thấy như mình đang đến một miền nào xa lắm. Ðăng nghĩ thầm: "Sau này kháng chiến thành công, thế nào mình cũng phải qua Lào hay đi Tây Nguyên một phen." Còm hút thuốc với anh đội viên Dưỡng và nhìn bờ sông bên Nà Ngượm lùi dần vào sương mù. Sương bắt đầu tan, một chút nắng sữa thoáng trên mặt nước. Anh Dưỡng nhìn những vệt nắng trong sương lăn tăn và nói to:

- Nắng rồi. Tàu bay chúng nó sắp lên.

Còm nắm lấy một cây sào dưới bè thả xuống nước. Lòng sông toàn đá sỏi kêu lạo xạo. Còm đẩy mạnh sào, trong lòng bỗng vui hẳn lên, tim đập mạnh.

Lúc tới bờ, ông cụ nhảy trước lên bãi cát. Anh em xuống bè đi qua, cụ nắm tay từng người:

- Chúc các đồng chí thắng trận nhé.

Còm cảm động nắm bàn tay gân guốc của ông cụ lắc mãi:

- Ngày mai là chúng cháu về liên hoan thôi.

*

Suốt ngày hôm ấy trời nắng. Cái đồn Pháp đứng trắng xóa giữa khoảng hoang vu không một hơi gió, một tiếng động. Lâu lâu một chiếc máy bay tiếp tế đi qua trên cao, tiếng máy nặng nề chìm vào cái im lặng như chết của những đồi cỏ gianh nóng ngùn ngụt. Chung quanh khoảng núi đồi và thung lũng đồn bản Bắc, trong những đám rừng, các đơn vị nối tiếp nhau tiến lên theo những con đường mòn đã bị gai góc lấp kín cả. Pháo binh gò người từng bọn díu lấy nhau bước tập tễnh, mồ hôi ướt như tắm, kềnh càng những dây thừng, đòn ống, gậy chống, khiêng những tảng sắt đi phăng phăng. Xung kích đi hàng một im lặng, mác loáng đầu cán tre. Dưới cáckhe suối, mấy đoàn tải thương ngồi nghỉ bên những cáng tre mới đan, các chị áo chàm luôn tay quạt mồ hôi.

Vào khoảng ba bốn giờ chiều, những đơn vị trợ chiến cuốc và đào nốt những công sự cuối cùng, cách đồn chỉ vài trăm thước. Anh trung đội trưởng thông tin mặt đỏ gay đứng giơ tay gắt mà không dám nói ra hơi, bên một cái máy điện thoại chưa đặt xong. Ban chỉ huy tiểu đoàn đã chiếu ống nhòm nhìn những bóng lê-dương đi ra đi vào trong sân đồn.

Ðại đội 112 tập hợp đông đủ giữa hai vách đá cao, trên một thửa ruộng dài xâm xấp nước, bên một dòng suối nước đỏ như rỉ sắt. Ði men theo con suối độ vài trăm thước là đã đổ ra cánh đồng bản Bắc. Hơn một trăm đội viên xung kích ngồi tản theo vách đá. Mấy anh công binh mon men ra bờ suối ngồi ngắm nòng khẩu ba-dô-ca.

Ðại đội trưởng Còm ngồi ăn cơm nắm ngon lành với chú Tịnh. Ðại đội phó Ðăng đang đưa một đồng chí nhà báo đi chụp ảnh các trung đội. Còm nhìn theo và nói với chú liên lạc:

- Ông nhà báo chịu khó nhỉ. Thế chú thấy máy điện thoại đã đặt ở chỗ tiểu đoàn rồi chứ?

- Ðặt rồi. Lúc em về thì đã bắt đầu nói.

Còm xem giờ, cắn nốt một khoang cơm, tu hớp nước ở bi-đông của chú Tịnh và đứng dậy. Các anh đội viên đang ngồi đọc những câu ca dao trên những tờ tranh nhỏ tiểu đoàn in.

Thửa ruộng trú quân rợp mát, vách đá hai bên thẳng vút, trên cao trời xanh rực như một tảng ngọc trong lò lửa. Còm đi nhanh qua các trung đội. Những anh cán bộ và đội viên thấy anh đại đội trưởng đi qua, ngẩng lên nhìn, tròng mắt lấp lánh.

Anh nhà báo đang chụp cho Ðăng một tấm ảnh. Còm tiến đến:

- Nhà báo tha hồ nhiều tài liệu. Nhưng anh về chỗ tiểu đoàn ngay đi thì mới kịp.

Còm quay sang Ðăng:

- Mệnh lệnh cho các trung đội sẵn sàng.

Ðăng đứng nghiêm, trước khi chạy đi, nói vội:

- Chúng nó vẫn mù tịt. Ăn chắc, anh ạ.

Tiếng đại bác đầu tiên làm Còm giật người lên như một chiếc lò-xo. Núi rừng kêu lên rào rào như đổ mưa. Ðại đội xung kích 112, hai tiểu đội công binh, trung đội phóng bom phối hợp, băng ra những thửa ruộng lúa chín cao đến ngực người. Họ nghiến răng cúi rạp mình chạy. Súng trợ chiến nổ giòn trên khắp các đỉnh đồi, những tia lửa đan nhau dằng dịt. Trên cái đồn sừng sững, khắp các ụ, các lỗ châu mai, các lô-cốt bắt đầu tóe lửa bắn ra.

Phát đại bác thứ hai làm tung một mảng tường, khói đen cuộn lên lẫn những bụi vôi gạch. Ðằng trước Còm, hai trung đội tiến vòng cánh cung, chắc chắn như trong một cuộc diễn tập.

Phát đại bác thứ ba nổ, công binh đã đang chặt rào. Trên khoảng đất ở trước cổng đồn, nơi đặt khẩu đại bác xăng-xanh, nghe rõ những tiếng hò hét của bọn Tây.

Xung kích vượt qua hàng rào thứ hai. Bộc lôi lại nổ ở hàng rào thứ ba. Lửa bốc lên lem lém. Mấy anh công binh nhô hẳn người phá đổ một quãng rào răng rắc. Anh tiểu đội trưởng đang chạy bên cạnh Ðăng bỗng đứng dừng lại, ôm bụng ngã chúi đầu xuống đất. Ðạn bay veo veo qua. Ðăng nép sát mình xuống. Hai khẩu đui-xết trên lô-cốt cao quét xuống đám xung kích những băng liên miên, không ngừng một giây. Kim loại trút xuống, đất bắn tung. Trung đội đầu cầu dán chặt mình ở chân rào không thể nhích lên.

Cách mấy chục thước dưới sườn đồi, Còm hét: "Phất cờ lên". Cờ phất quay tròn, đỏ như một chấm lửa, báo hiệu yêu cầu đại bác bắn thêm. Nhưng không hiểu sao, đại bác của ta im rồi. Trên tường đồn nhô lên một mớ tóc bù xù, một mũi súng bren thò ra ngó ngoáy rồi rào rào đạn đổ xuống. Còm điên người. Hai bren ba bren. Tụi lê-dương chồm cả lên tường mà bắn. Ðại bác đâu! Cờ lại phất lên những vòng giục giã, cuống cuồng: yêu cầu đại bác bắn...

Sát hàng rào, Ðăng nằm rúc đầu xuống đất, uất ức nghe đui-xết, bren của giặc thay nhau quạt liên tiếp sát trên lưng, không thể ngóc đầu lên mà nhìn nữa. Một vài giây đồng hồ bỗng im bặt, Ðăng vừa nghiêng đầu thì lại ào ào cả mấy khẩu của chúng nó cùng nổ như cướp lại quãng im lặng vừa vụt qua. Ác nhất là khẩu đại liên của cái ụ ở chéo bên sườn đại đội, cái ụ ác liệt đã làm cho Còm và Ðăng lo ngay ngáy từ mấy hôm. Tầm đạn của nó quét rộng trên một khoảng sườn đồi bắn đứt đôi trung đội đầu cầu, một nửa nằm sát rào, một nửa giạt xuống tận chân đồi. Ðăng bóp chặt chuôi kiếm bên mình. “Các đồng chí xếp hàng một mà đi lên”, câu nói của anh tiểu đoàn trưởng cứ xoắn vào óc anh.

Ðại đội trưởng Còm ngồi nhấp nhổm sau một bờ ruộng nhìn soi mói khắp mặt đồn và đếm kỹ đủ tám khẩu trung liên bren ở góc tường, đầu ụ. Nó dồn hết về mặt này. Bên mặt xung phong phụ, đại đội bạn có thể lên rất tốt. Ðại bác của ta chắc là gặp cái gì trắc trở rồi. Tìm cách khác mà tiêu diệt cái ụ súng hiểm ác trước mặt kia thôi! Hai mắt Còm nhìn như đóng đinh vào cái ụ súng đang lồng lộn tóe lửa bên cạnh khẩu xăng-xanh. Hai trung đội đằng trước báo cáo về: tiểu đội trưởng Am hy sinh, trung đội phó Hải bị thương nặng.

Còm bò tới bên máy điện thoại, nói bình tĩnh:

- A-lô... anh Hùng... đề nghị cho bên 110 lên ngay, bên này lên sau. Chúng nó dồn cả tám khẩu về mặt chúng tôi rồi. Cho phóng bom (1) và đại liên bắn thêm giúp chúng tôi... A-lô... Tôi sẽ dùng ba-dô-ca... A-lô... A-lô...

Ðiện thoại dứt. Những tiếng xèo xèo, vi vu bay trên cao. Xăng-xanh của nó ở Thất Khê bắn về. Rồi những tiếng xoẹt dữ dội, đạn đại bác nổ rung đất chung quanh. Trên đầu đại đội bị trúng rồi. Phải triệt ngay cái ụ súng lấy đường xung phong! Nằm đây thêm một phút, là thêm thương vong vì đại bác của nó. Còm nhỏm dậy, băng mình lên đầu trung đội hai.

Các chiến sĩ vẫn nằm thành hàng dài, đợi lệnh xung phong. Thấy anh đại đội trưởng lom khom tiến lên giữa những luồng đạn, họ vừa lo cho anh vừa vững tâm thêm. Còm vẫn tiến. Tới khẩu ba-dô-ca, Còm nằm sát bên anh khẩu đội trưởng, chỉ rõ mục tiêu ở cái ụ súng.

Tổ ba-dô-ca đã tách ra và trườn lên sườn đồi. Một anh lăn ngửa. Còm nghiến chặt răng. Nhưng một tia lửa chớp xanh lè. Còm nhìn rõ hai cái mũ sắt của hai đồng chí ba-dô-ca cất cao lên ở chân những lớp hàng rào dây thép gai. Khẩu ba-dô-ca bắn luôn một phát thứ hai, sạt một mảng cái ụ súng.

Mấy tiếng rít từ chân đồi phía sau liên tiếp bay lên. Bom nổ ùng ùng mù mịt đằng sau tường. Chú Tịnh nhỏm dậy xem phóng bom của ta nổ. Còm trợn mắt quát:

- Nằm xuống!

Trong đồn, nhiều tiếng chửi hét láo nháo. Chú Tịnh vẫn nhấp nhô cái mũ sắt nghe ngóng và bỗng kêu lên:

- Kèn anh ơi!

Tò te... kèn xung phong ở xa, bên kia đồn. Mặt xung kích phụ đang lên. Tiếng kèn kéo dài nghe rõ. Tò te... tò te... hồi kèn trầm bổng khoan thai trong những tiếng súng máy, súng tay, bom đạn vẫn điên cuồng.

Trong đồn càng nhốn nháo. Còm nghe như có nhiều tiếng reo hò vẳng đến. Từ những đồi trợ chiến mé sau, đạn lửa phùn phụt bay. Những chấm lửa bâu đầy mặt tường đồn trước mặt. Hai ba khẩu bren câm tịt, im hẳn. Hai cái mũ sắt của hai đồng chí ba-dô-ca lại cất cao hẳn lên ở lớp dây thép gai. Còm nom rõ một đồng chí nhô hẳn nửa người lên, rồi bỗng gục mạnh xuống, lăn ra. Trong người Còm đau nhói một cái. Nhưng phát ba-dô-ca nổ như một tiếng sét, trúng giữa lỗ châu mai của cái ụ súng! Lên ngay lúc này! Còm chồm dậy cầm chiếc còi đeo ở cổ thổi một tiếng dài. Tay vẫy mạnh, Còm băng mình lên, vừa chạy vừa gân cổ thét:

- Các đồng chí... anh hùng... cứ điểm... xung phong...

Những tiếng thét trả lời dào lên khắp từ đầu này sang đầu kia, mỗi lúc một to lên, dữ dội, trộn vào nhau thành một tiếng kêu à à không ngừng, trùm lên tiếng súng. Thanh kiếm của Ðăng hoa lên. Ở biệt súng một trăm linh năm ly, mười mấy tên lê-dương quay đi quay lại kinh hoàng. Hai trung đội qua hàng rào cuối cùng.

Khoảng đất trống trước bức tường mỗi bước một rút ngắn lại trước mắt những người lính xung kích cong mình chạy lên. Ngày giờ, quá khứ, tương lai, tất cả đều không còn. Chỉ có khoảng đất đỏ như máu, ba mươi, hai mươi, mười lăm thước ở đằng trước một bức tường trắng. Một anh đội viên nhỏ bé cắp lưỡi mác chồm lên khẩu đại bác. Năm sáu bóng cởi trần chạy tóe. Tiếng tiểu liên lét đét từng tràng ngắn. Những chiếc thang tre tới tấp đặt vào bờ tường. Một bóng người trên cao nhô khỏi thang và giơ hai tay lảo đảo, nằm vắt trên tường, lưỡi mác rơi xuống. Nhưng thoăn thoắt những bóng khác vọt vào bên trong. Còm chạy vụt lên. Chú Tịnh loi choi bám riết lấy anh đại đội trưởng.

Bỗng Còm đứng sững lại, bơi bơi hai tay trong không khí rồi ngã vật xuống. Chú Tịnh ghé tới bên, gọi thất thanh:

- Anh Còm! Anh Còm!

Ðầu Còm ngửa về đằng sau. Anh cố mở mắt nhìn lên phía đồn. Bao nhiêu chân người chạy qua trước mặt anh. Còm cố nhìn. Mờ hết cả. Nét mặt chú Tịnh thấp thoáng, mếu máo.

Chú liên lạc cúi sát xuống, gọi to:

- Anh ơi! Anh Còm ơi!

... Còm thều thào:

- Vào đến đâu rồi Tịnh?

Tịnh nói như khóc:

- Chiếm lô-cốt rồi. Trung đội hai đang vào nhà vô tuyến điện.

Còm cố nhấc cánh tay, môi mấp máy:

- Chú tháo cái đồng hồ ra. Anh cho chú đấy.

Người đại đội trưởng ngửa mặt thở dốc. Trên cao trời xanh lạ. Ban nãy Còm không thấy trời xanh. Có những đám mây trắng trôi thong thả. Còm nhìn mãi lên cao, không nói nữa, rồi dướn người một cái, tắt thở. Trên đồn, Ðăng xông xáo như một con hổ dữ, chỉ huy trận giáp lá cà.

*

Chiều hôm sau, bên cạnh cái sa bàn vẫn còn nguyên những nấm đất với cái đồn nhỏ xíu, một loạt quan tài phủ chăn đỏ xếp thẳng một hàng. Trời vẫn xanh trong. Sông Kỳ Cùng uốn dòng nước xa xa bên dưới. Gần một trăm đồng bào ở Nà Ngượm và mấy thôn lân cận đến dự lễ. Nắng ngả dài trên những ruộng lúa chín rì rào. Anh tiểu đoàn trưởng nói mấy câu giản dị vĩnh biệt các đồng chí đã hy sinh. Khẩu đui-xết mới lấy được bắn một tràng đạn lửa lên trời. Siêu hấp háy mắt kính giữa mấy đồng chí pháo binh. Anh cúi đầu nặng nề, như thấy mình có tội, - mặc dầu anh vẫn biết khẩu pháo vỡ nòng chỉ vì nó đã cũ quá.

Ðăng đứng bên cạnh Hòa, nước mắt chảy im lặng. Cái còi của anh hôm qua, Ðăng đeo nó lên cổ dưới áo ngoài. Ðăng sẽ giữ nó mãi. Anh chính trị viên Hòa gầy xanh đứng im, tay còn băng đeo trên cổ. Ðôi mắt đen của anh mở tròn nhìn vào những chiếc quan tài như nói những lời thầm thì.

Lúc hạ huyệt, cả đại đội 112 bồng súng. Dưới vành mũ sắt, nét mặt những anh đội viên xung kích vẫn lầm lì. Từ đám phụ nữ, chị Lưu tiến ra, tới trước mỗi quan tài, cầm một hòn đất ném xuống. Những chiếc chăn đỏ giống nhau, không biết anh Còm nằm trong áo quan nào.

Lễ xong trời gần tối. Các đơn vị tỏa ra trên các con đường ruộng mấp mô, tản về những ngọn đồi đang tím dần.

Chú Tịnh loắt choắt vừa đi vừa ngoái cổ lại chuyện với anh Ban:

- Anh ấy chết phớt lắm nhé. Chỉ nói có hai ba câu.

Ở bờ sông, chị Lưu đi trước về bản với chú Quân. Chị nhớ câu nói của anh Còm. “Kháng chiến thành công, tôi sẽ mời chị Lưu về chơi Hải Phòng, xem bến tàu Sáu Kho.”







_______________
(1) “Bom” đây là một khối thuốc nổ, "phóng bom" hình như tầm ngắn và kém chính xác.