Cái đám “hầu” trên tảng đá sống trâu nào đó ngoài bể Sầm Sơn, chúng bị cậy múc ăn mất ruột mà hẳn đã mát ruột, vì tưởng xưa nay nòi giống hầu chưa từng được chết một cách đầy thi vị như thế!

Cùng bị cậy, chẳng biết mớ gạch đá hoa trong ngôi nhà nọ ở vùng Quảng Yên có tâm sự thế nào...

Ngông như “ông”, mà không học múa gươm thì mới lạ. Múa, nhưng mà trước tiên phải cho bưng kín cả mặt trước mặt sau nhà. Ồ, không khí cái buổi múa ấy mới “Thề non nước” sao.

Nhờ người bạn vong niên của Tản Ðà, ta được biết bên trong thi sĩ tửu đồ từng ẩn một giấc mơ tráng sĩ.
(Thu Tứ)



“Tản Đà qua Nguyễn Tuân” (2)




Ông Tản Ðà mất. Ðến như ai mà chả thương, chả khóc. Cái đó là sự dĩ nhiên. Ai mà cấm ai khóc ai được. Thứ nhất là khi giọt nước mắt chính đáng kia được dịp để chan hòa. Vả chăng, nếu lúc hấp hối, biết mình sắp về và lại biết người sống rục rịch sắp khóc mình, nếu ông Tản Ðà còn đủ cái tỉnh táo làm lá chúc thư có một khoản xin đời đừng nên thương tiếc mình và nhún mình, khuyên người sống để dành cái nước mắt gừng ấy dùng vào những việc khác to hơn, thiêng hơn, người ta cũng cứ không kiêng nể những cái ý muốn cuối cùng của ông và cứ khóc lóc như thường. Không cho người bây giờ khóc Tản Ðà, thì định bắt người bây giờ phải khóc những tên bán nước ở cái buổi giao thời còn kéo dài mãi này hay sao? (…)

Tôi tiếc rằng, thời tiết lúc này, không cho tôi đốt được một lò hương để ngồi cho được ung dung mà kể chuyện người ngày xưa.

Người ngày xưa... lôi thôi lắm.

Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi thôi của Nguyễn Khắc Hiếu đi tắm bể Sầm Sơn. Thứ đến là cái lôi thôi của Tản Ðà khi cuốc cả nền nhà người ta lên để làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông Tản Ðà múa kiếm!

Gánh văn lên bán Chợ Giời, gửi thư lên Thiên đình cầu hôn, xuống bể Sầm Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống, lên rừng tịch cốc, uống rượu sâm-banh với nem chua trên toa xe lửa tốc hành, đi thăm mả vua Tây Sơn (...) làm náo động cả quan nha một vùng địa phương Bình Ðịnh, quái gở ôi là quái gở vậy thay. Chưa cho là đủ ngông, cái “quái tướng” ấy lại còn cầm đốc một thanh kiếm múa may quay cuồng nữa. Có đáng sợ không? Thật là “Ðời chưa chán tớ, tớ còn chơi” có như thế, vong linh ạ.

Nhà thi sĩ của chúng ta là một người hoàn toàn của thời cũ, vốn không quen với sự Âu hóa về phục sức, hôm đi tắm bể, đã hết sức cẩu thả. Người ta đừng vội tưởng thi sĩ đã hiện nguyên hình trên bãi cát bể Sầm Sơn đâu.

Thi sĩ cởi trần trùng trục, cái quần vải tây-cổng (?) có dây lưng lụa buộc hở (?) ngoài, được buông hẳn cạp lá tọa xuống. Con người ta đã nặng về phần ăn, thì nhẹ về phần mặc, thường là thế.

Nơi dây lưng lụa, một bên thi sĩ cột một be rượu một bên giắt một con dao nhọn mũi.

Thế rồi là ông Tản Ðà từ từ đi xuống nước mặn. Tây và đầm, buổi chiều đó, đã nguýt một tên chài lưới bản xứ bơi gần họ và dám gạt cái quả bóng cao-su xanh đỏ mà họ đang tung ném cùng nhau nô rỡn. Họ có biết đâu rằng đây là một cái nhân tài của nước Nam ta.

Thế rồi ông Tản Ðà cứ bơi đứng - bơi đứng, xin nhớ kỹ cho tôi - ra mãi ngoài xa, tìm được những tảng đá sống trâu nổi lên mặt nước mới chịu nghỉ. Ðấy là những miếng đá thừa thãi của mũi bể Cổ Rùa, ngoi xa ra biển. Chỉ có những người biết bơi lặn mà mạo hiểm lắm thì mới dám ra nơi ấy. Ông Tản Ðà có bơi ra tận đấy để uống ngay tại trận một bữa rượu. Ông mở nút chai rượu giắt ở dây lưng, vừa nhìn cái sóng bạc đầu, vừa tu ừng ực. Lấy mũi dao nhọn, ông cậy những con hầu bám vào đá giống như một vục (?) khoáng chất, bổ đôi từng con ra, múc lấy ruột sống, ăn rất ngon lành, thỉnh thoảng lại chép miệng vì thiếu mất ít gia vị. Chả nhẽ giờ lại cất công vào bờ vì một múi chanh, nhúm hồ tiêu sọ quên mang theo! Bóng tịch dương phía bờ cát đã nhuộm đỏ ối cánh rừng phi lao đang rung động nổi một cuộc hòa nhạc với cái hải triều âm. Bóng tịch dương viền cái hình thù ông Tản Ðà một màu đỏ gắt. Ðỏ gần được như mặt người say rượu. Mầu đá lúc bấy giờ tím, nước xanh như cánh chim trả, sóng trắng như thủy ngân. Giữa cái ầm ầm không mỏi mệt và có mầu sắc lạnh lùng như thế đang va đụng vào nhau, ông Tản Ðà ngồi yên lặng nậy những con hầu với một cái mặt đỏ gay. Chúng ta đã có cả một ông Lý Thiết Quài cổ quái đang ngồi ấp một cái su đá, vọng ra cái mênh mông của bể Ðông. Ăn no tắm mát rồi, lúc đặt chân lên dải cát vàng, thi sĩ của chúng ta nhìn cái mây nước vô hạn cảm, và muốn át cả tiếng bể Ðông, nói rất to:

- Nhất sinh, chưa bao giờ ta được hả đến như thế.

Lại một lần, vào giữa hồi thất thế, tiên sinh được một người bạn liền tài vời ra dưỡng nhàn tại vùng Quảng Yên. Cuộc đi ở đậu này là một cuộc ở nhờ dài hạn. Chủ và khách rất tương đắc.

Nhân một buổi chủ nhân vắng nhà, không biết buồn tay buồn chân thế nào mà ông Tản Ðà cho dẹp hết cả bàn ghế bầy ở phòng tiếp khách lại một góc tường. Rồi cầm lưỡi thuổng, tiên sinh đã cậy bật hết mấy lượt gạch đá hoa nơi nền nhà. Chợt thấy chủ nhân về, tiên sinh chống thuổng cười hề hề, chỉ cái đống đất và cát ngổn ngang trong lòng một thước vuông diện tích gạch hoa bị lật tung, hình như muốn ai cũng phải như mình, phải cùng thưởng thức với mình một công trình phá hoại nho nhỏ như thế. Thấy chủ nhân chậm lĩnh hội, tiên sinh phải cắt nghĩa:

- Ấy, định trồng ít vài (?) húng láng. Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều khi bực đến chết. Chén rượu nào cũng cứ nhạt phèo.

*

Bây giờ mới đến chuyện ông Tản Ðà múa kiếm.

Hồi năm ngoái, vào tiết sen tàn đã cụp lại trên mặt ao những chiếc nong rách, pha vào cái già nua của cây cỏ một màu gỉ sắt, tôi và vài ông bạn nữa kéo nhau vào làng Hà Trì ở gần tỉnh Ðơ. Ông Tản Ðà đã đính ước cùng chúng tôi là gặp nhau ở đấy, hôm chủ nhật, để đánh chén. Gặp ông Tản Ðà, thường bao giờ cũng lấy rượu ra làm đầu sai, nếu không đãi yến thì ít ra cũng phải tiểu ẩm. Hôm ấy, thịnh soạn. Thi nhân khoe rằng vừa mới lĩnh được một món tiền nhuận bút. Thảo nào, ruợu hôm ấy có lẫn mùi đẳng sâm. Và sáng hôm ấy, tôi thấy được một ngày không có giờ. Trong lúc chủ khách thụ ẩm, sự đời cứ chầm chậm, nhà nho như cái hồi nước cổ Việt Nam chưa bị nhà nước Pháp tới ở, có những người vào lớp cha anh chúng ta, ăn bữa gỏi cá sinh cầm mất những một ngày một đêm.

Lúc gần triệt soạn, tôi nằn nì với chủ nhân:

- Người ta đồn cụ múa kiếm có nhiều đường đẹp lắm. Anh em hôm nay muốn được xem.

Mỗi người thêm một câu. Rút cùng, Phục - người con thứ của thi sĩ - đã đưa cho cha một con dao phay. Nhưng trước khi bình thân, ông Tản Ðà đã thét người nhà lấy mấy tấm liếp bằng cót che kín mặt nhà trước lại. Và đóng kín cả hai tấm cửa sổ ở phía sau nhà trông ra vườn nữa.

Tôi đã hiểu thầm tại sao ông Tản Ðà có sự cẩn thận này. Ðấy là dớp sợ hãi của những năm Ðông Du và Ðông Kinh Nghĩa Thục còn để sót lại trong người thi nhân. Cái sự đó, cái cẩn thận đó là những cái lo lắng chính đáng của những nhà nho sống vào thời cụ Quận Thái Xuyên Hoàng Cao Khải, vào thời quan Khâm sai Lê Hoan, mà vẫn nhớ luôn là trong nhà mình có quyển sấm Trạng Trình, một cuốn binh thư và trong cái đòn ống gác bếp, vẫn có một thanh quất ép lưỡi vào tấm bìa một cuốn sách tính số Thái Ất. Trước khi múa kiếm, ông Tản Ðà nghiêm trang như một võ sĩ sắp lên tỉ thí trận lôi đài, nói với mọi người:

- Môn kiếm này của Tư Ðạt truyền cho tôi.

- Tư Ðạt?

- Con ông Ðô thống Thuật ấy mà. Ngày xưa, tôi năng tập, công phu lạ. Bỏ đã lâu lắm, chả biết bây giờ có đi được cả bài không. Ấy thế mà dù có nhớ, cũng khó mà đi hết được.

Trong gian nhà tối lờ mờ, mọi người nhận thấy một cái bóng trắng lượn múa trên hai bộ ngựa ghép sát lại,. Ông Tản Ðà mặc áo trắng dài. Cũng tiến lên, lùi xuống, bước đi gò theo một luật phép rất khắc khổ. Cũng múa trên, đỡ dưới. Chưa bao giờ, tôi tập đánh kiếm. Nhưng hồi còn ở lao, có mấy người tù đàn anh đã đi cho tôi xem cả môn độc kiếm, cả môn song kiếm, và giảng sơ sơ cho tôi về kiếm thuật. Căn cứ vào những nhời xa xôi ấy, tôi thấy ông Tản Ðà hôm ấy múa tròn lắm, đường kiếm lúc nào cũng che kín người. Và có những đoạn loạn đả, ông Tản Ðà có những miếng sả và tuốt cũng lợi hại lắm. Chả biết lúc sự thực phải cho đổ máu thì kiếm thuật sẽ như thế nào, nhưng ở phút múa kiếm sau cơn rượu, tôi thấy thi nhân đẹp lắm. Và nhớ tới trong một cuộc bút chiến, ông Tản Ðà đã lên án chém ông Phan Khôi mà tôi sợ.

Tôi nhìn xuống nhà dưới thì ở khung cửa nhà ngang, bà Tản Ðà đang thập thò với vẻ khiếp sợ rõ rệt. Nghỉ múa kiếm, ông Tản Ðà gọi thứ nam:

- Phục ơi! Con bỏ quần áo vào va-li cho cậu. Chiều nay cậu ra Hà Nội.

Rồi quay lại phía chúng tôi, ông nói về chuyện kiếm:

- Tứ phương, bát diện, những lúc tứ diễn thu dinh, những lúc hồi chiến, thanh kiếm sát phạt đã nhiều lắm chư vị ạ!

Vẫn không quên sắp hành lý để trẩy ra Hà Nội, thi nhân bỏ vào va-li một cái nghiên mực, một đĩa son và một tập cổ thi. Cái va-li ấy là một cái va-li cũ kỹ đã bật cả khóa, chẳng khác gì cái va-li của một ông đồ Nghệ mới ra Bắc làm thuốc. Say rượu, rồi múa kiếm, cất kiếm rồi hỏa tốc sắm va-li lên đường như là một khách không nhà, sao người ta không sống vào thời Trung Cổ để làm một kẻ hiệp sĩ nhỉ? Chưa bao giờ, tôi buồn một cách rất thi vị như buổi chiều ấy.

Cái buổi chiều ấy là một buổi chiều ông Tản Ðà khởi hành ra Hà Nội để rồi đi mãi mãi, đi... thẳng luôn vào lịch sử, của nước Việt Nam văn chương.


Bãi bể Cửa Lò, tết Ðoan Ngũ

(Trong
Chén rượu vĩnh biệt (nhiều tác giả), nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1989)