Chả có ai bận bịu buôn bán đến nỗi không viết thư cho người yêu được. Cũng không phải “khách” do đã vợ con mà giấu Vân Anh cái địa chỉ nhà. Câu hỏi bình thường, câu đáp khác thường, ấy bởi “khách” nào phải thương nhân mà chính là một người yêu nước đang hoạt động bí mật để cứu nước. Thời Tản Ðà, hễ động đến quốc sự là văn thơ phải ngụy trang, ai đọc hiểu thì hiểu, ai tưởng nhầm “anh khóa” đi làm ăn thì cũng đành chịu.(1)

Học hành chữ nghĩa như “khách” mà công danh chẳng có, thậm chí không biết bị bắt, bị tra khảo, tù tội lúc nào. Phong cách, tài hoa như “Vân” mà chồng con chẳng có, thậm chí đói rét như chơi. “Anh chị” cùng ở với nhau thì “có ích” cho nhau quá, nhưng...

Chuyện đi hát cô đầu biết bao nhiêu chuyện, nhưng có phải chẳng chuyện nào như cái chuyện này. “Ngẫu nhiên”, người kể chuyện rất sành hát ả đào, lại chính là con của một người ả đào. Vừa thấm thía hoàn cảnh “Vân”, vừa trân trọng chí hướng “khách”, có thế mới nên được “Thề Non Nước” chứ.

(Thu Tứ)

(1) Xem bài thơ Tiễn Chân Anh Khóa Xuống Tàu của Á Nam Trần Tuấn Khải.



Tản Đà, “Thề non nước” (2)



Vân Anh đi mở hòm lấy bức tranh đưa ra, khách giở xem, thực là một bức cổ họa. Trông khoảng trên có đề ba chữ triện không hiểu là chữ gì. Vân Anh nói đấy là chữ nôm. Khách nhận ra thời là ba chữ “THỀ NON NƯỚC”.

Vân Anh nói:

- Cứ ba chữ này, nguyên nghĩa thường thời là chỉ non thề nước; đề vào đây thời là làm sao?

Khách nghĩ một lúc rồi nói:

- Ðây hoặc là người ta mượn câu sẵn mà khiến về nghĩa riêng. Ba chữ đề đây phải nhận nghĩa là non với nước hai cái thề với nhau. Như thế có nhẽ mới hợp ý bức họa.

Vân:

- Dẫu nhận là như thế, nhưng đây chỉ vẽ một dãy núi, còn không thấy sông nước gì cả, lấy gì làm cái thề với nhau?

Khách:

- Ðây dẫu không có vẽ sông nước, nhưng nhận kỹ có một ngàn dâu ở chân núi, tức là sông nước khi xưa mà tang thương đã biến đổi..

Vân:

- Dẫu nhận là như thế nhưng lấy gì làm thề?

Khách:

- Nguyên bức họa này, ý chỉ là một bức tranh tang thương cho nên dưới vẽ một ngàn dâu tựa như thể khúc sông; trên núi thời như mây như tuyết, như mấy cây mai già, như bóng tà dương, đều là để tả cái tình cảnh thê thảm. Bởi thế cho nên ba chữ đề này, dẫu là lấy câu sẵn mà đề vào, song thực tỏ ra được cái tình thương nhớ của dãy núi tức là vì dãy núi mà cảm nỗi tang thương. Bây giờ bất cứ trong bức họa mà muốn tìm cho ra như thế nào là thề, như thế thì vì nệ chữ đề mà hại đến nguyên ý của bức họa.

Vân:

- Vậy thế bây giờ muốn đề một bài thơ thời thế nào là phải?

Khách:

- Bây giờ nếu muốn đề một bài phải nên trông vào bức họa mà lại lấy hai chữ đó làm đầu đề. Chú trọng vào một chữ non, lấy một chữ non làm chủ, vì rằng non đó thực là chủ trương trong bức họa mà lại có ở trong đề; còn chữ thề với chữ nước thời trong họa không có mà trong đề có, cũng phải nhận như có mà chỉ nên nói nhẹ như không, vì là thề thời về sự đã qua mà nước thời không trông thấy ở đó. Nghĩ như thế, hoặc có phải chăng?

Vân:

- Như thế thời khó lắm. Tôi thời không biết thế nào mà đề được.

Khách:

- Ý chị muốn đề bằng văn nôm hay bằng văn chữ nho?

- Ðề bằng văn nôm thời hơn, vả nhân ba chữ đề đây cũng bằng nôm.

Khách:

- Vậy thời đề một bài thơ hay một bài lục bát?

Vân:

- Bài lục bát cũng được, hay một bài cổ luật cũng được.

Khi ấy, khách lại ngồi uống rượu mà vừa nghĩ. Bức họa vẫn để đó. Vân Anh thời đứng dậy đi xuống bếp bảo con ở lên bưng mấy bát đồ ăn xuống để hâm lại. Lúc Vân lên cùng ngồi vào uống rượu thời khách đã nghĩ được mấy câu, đọc rằng:

“Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại, non còn đứng không”.


Vân:

- Như thế thời hay lắm! Chữ thề chữ nước vẫn nói đến mà vẫn là không có; chỉ một chữ non là nói thực. Nhưng còn hơi hiềm vì trùng mất một vần non thời kém hay.

Khách:

- Vần non trùng, tưởng cũng không hại lắm; nếu nệ mà đổi đi thời mất hết cái thiên nhiên.

Vân:

- Thế bây giờ xuống thế nào nữa?

Khách:

- Bây giờ thừa xuống, cứ trông cái non trông bức họa mà tả thực cho hết những cảnh vật ở non mà cho tả được cái tình tương tư của non, thời hay.

Vân đọc:

“Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!”.


Khách:

- Hay lắm! Thử đọc lại cho nghe một lượt nào.

Vân đọc lại, khách nói:

- Như thế thời không trông vào bức họa, cứ đọc cũng thấy như vẽ ra một cái núi tương tư. Không ngờ chị văn nôm hay mà nhanh được đến như thế.

Vân:

- Cũng là tại ông đã bảo rõ cho cái thế làm.

Khách:

- Nếu tôi với chị mà cùng ở với nhau thời có nhẽ hai người cùng có ích?

Vân:

- Cái ấy thời cũng tùy ở ông.

Khách:

- Khốn nhưng tôi thời lông bông lắm, nếu chị mà dính vào với tôi thời lại túng khổ hơn ở đây.

Vân:

- Chịu được thì thôi chứ sao?

Khách:

- Nói đùa đấy, tôi thật là một người không có tình.

Vân:

- Không có tình, thế sao văn lại có tình?

Khách:

- Ấy, chỉ có tình ở văn, thế thôi.

Câu chuyện quá vui, trông ra trời đã chiều. Khách đứng dậy, nói phải lên ga để đón một người quen, vội mặc áo đi ngay, còn cái va-li thời gửi lại ở đấy.

Vân Anh, sau lúc khách đi, cùng đứa ở xếp dọn chỗ mâm rượu, cuộn bức tranh cất đi, cả cái va-li của khách gửi cũng xách để vào tủ, khóa lại, rồi đi ngủ một lúc. Ðến tối dậy, trong nhà chỉ còn một ít gạo; những đồ ăn mua chịu để làm cơm buổi sáng, người ta đến đòi tiền, không có đâu mà trả. Lúc từ đêm hôm trước cho suốt ngày hôm qua, trời mưa mãi, nhà ở ẩm thấp, bà mẹ lại bị cảm, lên cơn sốt nằm rên. Nghĩ thực nhiều nỗi buồn, có ý mong mãi mà không thấy người khách về; ai gọi đi mời rượu đều kiếu cả. Suốt đêm chỉ đi ra đi vào một mình, ngồi chán rồi lại đứng. Ngày mai, lấy cái áo mền nhiễu đem lên Hà Nội cầm được ba đồng bạc, lấy cho bà mẹ hai chén thuốc cảm, còn thời về trang trải giả những tiền mua đồ ăn. Thế là chỉ còn một cái áo băng rách cánh tay, để có đi mời rượu đâu thời mặc. Ôi, trời tháng chín, mưa mưa gió gió, thu sắp hết, đông gần tới, lạnh lùng thay giai nhân! Nghĩ là thân một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà trụy lạc vào xóm Bình khang, ừ thôi, thân danh duyên phận đã không được như ai, còn như cái ăn cái mặc tưởng đâu đến nỗi phải đói rét... Vậy mà con tạo hóa đã ghen ai ghen cho thật quá nhẽ, đã ghét ai, ghét cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “tài” còn nên có nữa hay thôi. Qua ngày hôm ấy đến tối, không thấy người khách về; đêm cũng không thấy về; suốt ngày hôm sau nữa, đêm hôm sau nữa, mãi mãi không thấy người khách về!

Một tối, Vân Anh ngồi buồn một mình, tưởng lại bài đề họa hôm nọ, tìm tờ giấy biên đem ra xem, nghĩ như thế này mà thôi thời chưa được sung nghĩa mà lại sợ có nhẽ sái. Ngồi nghĩ nối thêm rằng:

“Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa”.


Mới được hai câu, thấy có người vào, thời là ông khách ấy tay cầm một chai rượu, cười nói vui vẻ và bảo làm rượu uống. Vân Anh lúc ấy cũng vui mừng mà cũng lại ngại, vì không biết lấy gì mà làm rượu. Sai con ở đi mua chịu gà không được, mình chạy sang chị em vay một đồng bạc cũng không được. Sau phải lấy tình thực nói với khách.

Khách nói:

- Thế chỗ tiền ấy đã hết cả rồi à?

Vân:

- Tiền nào ạ?

Khách:

- Ấy, có tiền ở trong va-li ấy. Va-li tôi vẫn bỏ ngỏ không khóa, tưởng là đi thời về ngay, cho nên vội cũng không kịp dặn. Thế ở nhà chị không lấy tiền à?

Vân:

- Không, tôi có biết đâu.

Vân Anh đi lấy va-li ra thời không khóa thật, mở ra, trong có một gói giấy bạc vào độ hơn ba chục, lấy mấy đồng đi mua đồ làm rượu, còn thời lại để vào đấy, khách bảo Vân Anh lại cất đi. Ðêm hôm ấy, anh chị lại thù tạc, lại nói chuyện về bài đề họa.

Vân Anh nói:

- Bài này nếu cứ thế mà thôi thời sợ có nhẽ sái.

Khách:

- Làm văn có sợ gì sái, nhưng bài này cứ thế mà thôi thời không được dào ý.

Vân Anh nhân đọc hai câu mới nghĩ nối.

Khách:

- Như thế thời hay lắm! Một câu trên tả chân thật hay!

- Thế đã thôi được chưa?

Khách:

- Kể thôi cũng được, nhưng nối thêm được nữa thời có nhẽ mới được là dồi dào.

Lúc ấy tửu hứng đã cao, khách bèn nối rằng:

“Non cao đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui”.


Vân Anh lại nối tiếp:

“Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”.


Khách nói:

- Như thế thôi thật là hết nghĩa.

Vân Anh đem chép lại tất cả cho thật rõ, rồi đọc suốt lại một lượt. Hai người cùng lấy làm ưng ý. Sẵn bút mực trong va-li, tức thời đốt đèn thật sáng, đem bức họa ra để đề. Khách đề trước một bài chữ nôm. Vân Anh thì viết quốc ngữ. Ðề xong, lại cùng ngồi uống rượu làm văn; thường hai người cùng làm chung nhau một bài, mỗi người làm mỗi đoạn. Cuộc rượu chưa tàn, hứng văn thơ cũng chưa tàn, nghe tiếng gà như đã giục khách. Khách xin biệt để đi. Vân Anh ngẩn người mà giữ lại. Khách nói phải đi kịp chuyến xe lửa nhất, kẻo nhỡ mất việc buôn bán. Vân Anh lại hỏi đến hôm nào trở lại thời khách bảo không biết thế nào mà nói trước, hoặc không trở lại đây nữa cũng nên. Lúc ấy, hai tình quyến luyến, tự người bình khang kia không phải là giả ý mà du tử cùng nặng lòng biệt ly.

Vân Anh nói:

- Từ khi tôi đưa thân ra đi xướng ca, bao những cái tính tình trong lúc thơ ngây thật không còn có chút nào nữa. Không ngờ rằng đến nay, được gặp có người như ông mà cùng nói một đôi câu chuyện khiến cho những cái tính tình trong lúc thơ ấu như đã chết mà lại được hồi sinh. Nghĩ rằng còn được thừa tiếp ông về lâu nên chưa dám vội hỏi rõ. Nay cái thì giờ trân trọng còn có ít như thế, mà từ nay về sau lại cũng chưa biết làm sao. Sau này nếu tôi có bài văn nào làm ra, hoặc là câu chuyện gì muốn gửi trình ông biết thì viết thư đề ra làm sao? Muốn xin ông bảo cho thời hay lắm, và lúc nào ông có thì giờ rỗi, xin ông, xin ông cứ viết giấy cho.

Khách:

- Thôi! Can gì phải phiền thế. Như chị thì hoa đào nước chảy, chỗ ở rất là vô thường; tôi thời là một người khách buôn, quanh năm giang hồ, càng không biết đâu mà định. Lúc nào ngẫu nhiên gặp nhau thời lại cùng nhau nói chuyện; còn những lúc mỗi người một nơi thời ai có việc của người ấy, cũng không cần phải tưởng nhớ đến nhau làm gì. Tôi cũng có hai chuyện muốn nói chuyện với chị, nhưng thôi, hãy để đến khi khác.

Lúc ấy bà cụ đã tỉnh dậy. Khách bảo Vân Anh lấy hộ cái va-li ra, trong va-li còn ba mươi đồng bạc, bảo cầm đưa cả vào bà cụ, nói trong mấy hôm quấy quả, xin cụ miễn trách cho. Mở cửa ra thời xe cao-su đã kề vào tận hè, khách chào để lên xe. Từ đấy mà về sau những xe kề cửa nhà Vân Anh, vắng hay đông, không biết những ai; một người khách từ biệt trong lúc mờ sáng hôm ấy mà đi thời khó thay có buổi trùng lai vậy!


(Trích truyện dài
Thề non nước (1932))