“Quách Tấn - Một chùm quả sau Mùa”




Thời tiền chiến, trong khi hầu hết thi nhân làm thơ Mới thì Quách Tấn thản nhiên gieo vần theo luật Đường. Đọc thơ, dễ tưởng ông sống cùng thời với Bà Huyện Thanh Quan!

Tại sao có hiện tượng này?

Vì ấy là một buổi giao thời. Thời mới chưa vào được mọi nhà, lác đác có nhà thời cũ vẫn hiện diện coi như nguyên vẹn. Ở tỉnh Bình Định, ta vừa có Thơ thơ của Xuân Diệu, vừa có Một tấm lòngMùa cổ điển của Quách Tấn. Người chênh nhau chỉ có sáu tuổi, mà thơ chênh nhau đến hàng thế kỷ!

Thơ Quách Tấn giá trị thế nào?

Một tấm lòng được Tản Đà tán thưởng. Mùa cổ điển ra đời sau ngày Tản Đà mất. Thiết tưởng nếu có đọc, Tản Đà chắc sẽ thích tập sau hơn cả tập trước. Chúng tôi thì thấy tuy trong hai thi tập này có một số bài tứ hay lời đẹp, gợi nhắc người đọc những tác phẩm nổi tiếng của các thi nhân thế kỷ 19, nhưng số bài thành công như vậy không nhiều.

Sau Mùa cổ điển, Quách Tấn có xuất bản thêm bốn tập thơ nữa: Đọng bóng chiều (1965), Mộng Ngân sơn (1966), Giọt trăng (1973), Trăng hoàng hôn (1999). Ba tập đầu gồm toàn thơ luật Đường và thơ cổ phong, tập cuối gồm toàn thơ lục bát. Chúng tôi cho rằng Giọt trăng thành công hơn cả, với một số bài vừa hay vừa giàu hình ảnh quê hương Việt Nam… À, có điều này đáng chú ý. Là tất cả 363 bài trong bốn tập thời kỳ sau đều chỉ dài có đúng bốn câu! Cái gì đã nén thơ thật chặt mãi thế? Chúng tôi nghĩ đến tâm trạng cô đơn của một người sống lạc thời và đến hai nỗi đau tử biệt lớn mà người ấy đã phải chịu đựng…

Thơ Quách Tấn, nói chung, có thể xem như một cái bóng mà Mùa Cổ Điển rực rỡ đã in lên thơ Việt Nam thế kỷ 20. Hay như một chùm quả xuất hiện khá lâu sau Mùa. Trong chùm, có một số quả chín hương vị có lẽ sánh được với thời trân xưa.

Món “như xưa” chưa chắc món thừa. Đọc những “lời yêu” mới mẻ, sôi nổi, tuôn trào của Xuân Diệu hồi lâu, lòng độc giả có thể trở nên xôn xao quá. Nếu thế, nên thử ngâm nga đôi vần cũ kỹ, điềm tĩnh, cô đọng của Quách Tấn một lúc, biết đâu lòng sẽ “trầm” xuống được ít nhiều…

“Đá vọng phu”

“Chồng đi biệt tích tự bao giờ / Một góc trời riêng một dạ chờ / Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp / Tóc thề mây núi bạc phơ phơ / Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi / Nước vướng tình sâu chảy lững lờ / Dâu bể đã bao đời kiếp trải / Lòng son một tấm mãi trơ trơ”.(1)

Cái ý đá chờ chồng thì mười mấy thế kỷ trước Vương Kiến đời Đường bên Tàu đã sáng tác “Vọng phu thạch”, nhưng bài thơ này của Quách Tấn đâu có phải là thừa. Chế Lan Viên từng nhiệt liệt tán thưởng hai câu ba, bốn. Quả thực, đây hình tượng độc đáo, lời diễn đẹp đẽ, khen là đúng lắm.

“Chiều xuân”

“Chim mang về tổ bóng hoàng hôn / Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn / Cành gió hương xao hoa tỉ muội / Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn / Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng / Trời biển nôn nao tiếng địch dồn / Thưởng cảnh ông câu tình tự quá! / Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn”.(2)

“Tranh” vẽ thật đẹp, mà lại thơm hương hoa và văng vẳng tiếng chuông tiếng sáo. “Thưởng cảnh thi nhân tình tự quá! / Thuyền thơ chở cảnh đến non thơ”! Tưởng “Chiều xuân” đáng xem là cổ điển trong Mùa cổ điển. Tiện đây, có lẽ nên nêu thêm vài câu đáng trầm trồ khác trong thi tập này: “Gió dồn mặt sóng hơi thu quạnh / Buồm cuốn theo mây ánh nắng vàng”, “Ðây vài giọt nhẹ rơi mưa lá / Ðó một màu im trải nắng hồ”, “Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc / Sông đùa lạnh tới bóng trăng run”, “Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp / Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư”… Ngồi mà gọt giũa nên những câu như thế, kể cũng thú. Mà không phải bất cứ ai cũng gọt giũa nên được những câu như thế.

“Đêm thu nghe quạ kêu”

“Từ Ô Y Hạng rủ rê sang / Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng... / Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng / Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng / Bồn chồn thương kẻ nương song bạc / Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng / Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi / Tình hoang mang gợi tứ hoang mang...”.(2)

“Quạ... quạ... quạ... quạ...”... Khuya vắng nằm nghe tiếng kêu của loài chim có bộ lông màu đêm ấy dội xuống từ lưng mây, chắc “tình tứ” có dễ hoang mang!

“Hiu quạnh”

“Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi / Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi! / Mộng về lối cũ tìm khôn gặp / Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi! / Lá rắc thêm sầu rơi gió một / Chim dành riêng thú liệng trời đôi / Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh / Cúc nỡ nhìn nhau mỉm miệng cười!”.(2)

Xa người đã mấy mùa trăng
Ðìu hiu còn đọng rành rành ngấn đây
Chim trời nào biết niềm tây
Cánh tung liền cánh đua bay dập dìu.

“Trơ trọi”

“Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ! / Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ! / Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ / Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ! / Mưa gió canh dài ngăn lối mộng / Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ... / Hỏi thăm tin tức bao giờ lại? / Con thước qua song lại ỡm ờ!”.(2)

Ðọc Quách Tấn, nhớ Yến Lan: “Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ / Lại đành không tiện viết thư thăm / Ngại trao tâm sự cho tờ giấy / Ðè nặng thêm tay kẻ nhận cầm” (bài “Vô tình và hữu tình”). Người sau nhớ, rồi thấy “không tiện viết thư”, bèn làm thơ. Còn người trước nhớ, rồi tuy “nghĩ tội thơ” nhưng cũng cứ làm thơ. Thế là phải. Ai nhớ, ai được nhớ, bao lâu mà cát bụi, chỉ có thơ nhớ là có thể mong ở được lâu lâu trong lòng những ai ai… (Sực nghĩ: đôi tiền nhân người Bình Ðịnh này sao mà hiền lành quá đỗi!)

“Bên ao”

“Ao phù dung đỏ thắm
Nước gợn vòng âm thanh
Nhớ nhau ngoài vạn dặm
Chiều xuống biếc long lanh”
.(3)

Có thứ phù dung hoa sáng trắng trưa hồng chiều đỏ, có thứ phù dung khác hẳn là cây thuốc phiện, hoa lúc nào cũng đỏ, không biết đây là thứ phù dung nào? Ao đỏ vì hoa rụng, hay đỏ là bóng hoa in trên mặt nước? Cái mặt ao chỗ đỏ thắm màu hoa, chỗ xanh biếc màu trời, gờn gợn, long lanh, đứng bên bờ mà trông, nhớ quá, tri âm ơi.

“Bóng khuya”

“Tiếng dế trùm đêm quạnh
Vườn dừa ngưng ánh sao
Bên đèn trang sách cổ
Lành lạnh sắc chiêm bao”
.(3)

Trong tiếng ri rỉ ran ran liên miên bất tuyệt, dưới những tàn lá dừa rậm rạp, một ông già ngồi một mình bên những dòng chữ “già” hơn ông mười mấy thế kỷ. Lửa đèn vẫn vàng, mà lạ, sao trang sách có lúc như ánh xanh!

“Bóng trời xưa”

“Đôi hồ thu ngậm biếc
Thăm thẳm bóng trời xưa
Cánh bướm bờ hương động
Hàng dương giọt nắng trưa”
.(3)

Ban đêm, nhất là về khuya, dễ gặp xưa hơn, nhưng ban ngày cũng có khi. Cái bóng thăm thẳm biếc dưới hồ thu kia, nó dường như của một trời xưa nào chứ không phải của trời đang ở trên đầu mình! “Cánh bướm” khẽ đập, “bờ hương” khẽ rung, một chút màu vừa lay, một chút hương vừa tỏa... Cây cối rây ánh sáng thành tia, tia soi đâu thì đó như có “giọt”. Giọt trăng giọt nắng không ướt da, nhưng thấm được đến tận lòng!

“Hư tâm”

“Chim chiều kêu trước dạu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng”
.(3)

Tiếng chim đấy, mây trắng đấy, ráng hồng đấy, có phải “không” thật đâu! Chẳng qua do vắng cái loài đi bằng hai chân kia, mà như “không”. Sách thường đầy người. Ðóng sách lại, lót dưới đầu cho khỏi thấy sách, lát sau trong tâm bỗng cũng vắng người y như ngoài trời...

“Khóc con” (II)

“Thương con không dám khóc
Sợ rắc thêm đau buồn
Ôm sách nằm chăm đọc
Âm thầm giọt lệ tuôn”
.(3)

“Chăm đọc” là con mắt chăm, chứ lòng người cha thương con tử trận thì đang chăm chăm nơi nào khác. “Âm thầm…” làm nhớ câu thơ Chế Lan Viên “Nhỏ to mạch gối đôi dòng”. Cái đau buồn thương nhớ ở đôi người, sao mà nó kín đáo lạ.

“Khuya vắng”

“Thu lạnh mướp tàn hoa
Vườn không ong bướm qua
Song khuya ngồi xếp sách
Sương lóng giọt trăng tà”
.(3)

Các cõi thơ Bình Định hay chứa trăng. Mỗi cõi, trăng hiện ra mỗi khác. Trong thơ Quách Tấn, trăng là những giọt, thường rơi xuống đất, xuống thềm, bám trên lá cây…

“Say nắng”

“Vườn rộng tiếng chim thưa
Bướm vàng say nắng trưa
Chờn vờn chân muốn đậu
Vòi mướp gió đong đưa”
.(3)

Nắng chang chang xóa hết “nền”, mắt chỉ còn trông rõ một đôi cánh vàng “chờn vờn chân” bên một cái “vòi” xanh xanh như đưa lại gần như né ra xa… Buổi trưa gần như rỗng hình. Và cũng gần như rỗng tiếng. Nhưng lại không hề rỗng trong lòng một người.

“Tiếng ngân”

“Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh”
.(3)

Sóng chuông đã thôi làm rung màng tai, nhưng như vẫn còn làm gợn mặt hồ. Ngân nga giờ hóa “long lanh”. Cảm nhận đẹp.

“Tiếng vàng khô”

“Lá rơi thềm đá lạnh
Ngân nhẹ tiếng vàng khô
Không trời sương bến quạnh
Ðêm ngấm sầu Cô Tô”
.(3)

Ðây sầu ấy, qua bản dịch thơ Đường của Tản Ðà: “Trăng tà, tiếng quạ kêu sương / Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ / Thuyền ai đậu bến Cô Tô / Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”. Nên sầu ấy, ấy bởi vì người ngủ thuyền đang lẻ loi nơi đất khách. Quách Tấn thì chắc đang ở ngay tại nhà mình, sao lại cũng “ngấm” được thứ sầu lữ thứ? Sao không. Người ta có thể không cất nửa bước ra khỏi nhà mà vẫn thấy trơ trọi lắm chứ, nhà tuy đóng chặt xuống đất mà có thể như “lơ lửng bên sông” lắm chứ!(4) Ồ, cái cảm tưởng của một tâm hồn nhậy cảm trong đêm thanh vắng nó có thể miên man đến chừng nào. Miên man đến nỗi tiếng lá rơi xuống đá mà cũng “ngân” được như tiếng chuông chùa!



Thu Tứ
Viết năm 2012
Sửa tháng 6-2019



















___________
(1) Trong
Một tấm lòng.
(2) Trong
Mùa cổ điển.
(3) Trong
Giọt trăng.
(4) Ca dao: “Thuyền ai lơ lửng bên sông…”.