Nhớ bài thơ "Bông huệ trắng" của Nguyễn Hữu Quý:

“(...) những người lính tìm đường về quê mẹ (...)
bằng tiếng gọi của dòng nước mắt
bằng thương nhớ quắt quay từ hai phía chân trời
(...)
Những người lính tay cầm bông huệ trắng
trở về nơi mình đã ra đi
các anh lẫn trong vách đất thầm thì
các anh hòa vào mái tranh thủ thỉ
cây của mẹ gọi anh về xanh lại
trái cuối mùa - thêm lần nữa - mẹ sinh anh (...)”.

Về, nhưng không phải như ma, mà như những mầm sống mới trên quê hương, thế mới là nên các anh ạ.

(Thu Tứ)



Lưu Sơn Minh, “Bến trần gian”



Anh đã đi mấy chục năm, vượt qua bao nhiêu khuôn mặt chỉ để đêm nay tới đây và gọi “Đò ơi!”.

Dòng sông không hiểu là đang chảy hay đã ngừng chảy từ lâu. Chỉ có ánh trăng rụt rè sáng một nửa sông phía bên kia không bị bóng cây si che lấp. Anh chợt thoáng rùng mình, ngày xưa, chỗ này có một người con gái chết đuối. Anh vẫn nhớ kỹ người ta đã khênh cô ấy lên và để cô nằm ngay đây, gối đầu lên gốc si già. Anh vội liếc trộm vào gốc si tối thẫm. Chẳng thấy gì cả ngoài một hõm đen lờ mờ, chỗ ngày xưa nước lụt xoáy vào. Anh lại gọi to lên “Đò ơi”. Tiếng gọi đò khẩn thiết. Hồi còn bé, bà hay kể cho anh nghe ngoài sông đêm có tiếng ma gọi đò. Tiếng gọi như một lời cầu khẩn tha thiết có sức hút huyền bí đến lạ lùng. Bao nhiêu cô gái đã chạy ra bến và chèo đò một mạch qua sông rồi lại chèo về, cứ thế cho đến sáng. Sau đó chẳng ai dám lấy các cô ấy nữa.
Bóng anh trôi nhè nhẹ ven sông, đổ lên những thân cây đẫm sương. Mấy chục năm cỏ cây vẫn thế. Anh cứ trôi, trôi mãi... và cất tiếng gọi “Đò... ơi đò”.

*

Bà cụ Lăng lọm khọm đi ra sau vườn. Đêm nay là đêm rằm, trăng sáng vằng vặc, bà không sao ngủ được. Bà nhớ lại đêm trước ngày thằng Lăng đi bộ đội. Sau khi dự hội diễn ngoài đình trở về, nó lặng lẽ ngồi đầu hè thổi sáo. Bà thì ngồi trong nhà nhìn ngắm đứa con trai duy nhất. Bóng nó đổ xuống sân lừng lững. Bà thấy mắt mình nhòa đi, hình như bà khóc. Cái bóng tự nhiên cứ mờ dần dưới chân Lăng. “Chết... mất bóng thì mày thành ma hở Lăng?”... Bà vội giụi mắt, không, cái bóng Lăng vẫn còn nguyên ở dưới sân. Đúng, bà nhớ lắm, nó quay lại cười với bà: “U đi ngủ đi, con ngồi thêm chút nữa rồi con cũng đi ngủ. Đêm nay trăng sáng quá”...

Ngoài vườn, cây nhài lặng lẽ thơm. Hồi thằng Lăng đi rồi con Thùy mang cây nhài sang trồng ở vườn. Nó bảo bà: “Con chờ anh Lăng hết đời”. Chiều chiều, nó sang nhà nấu cơm quét tước giúp bà. Thế mà bây giờ con bé đã một nách năm đứa con. Lấy nhau mười năm thì chín năm mười một tháng bị chồng đánh. Bà biết, vì con bé vẫn thỉnh thoảng ra bờ sông khóc. Bà lập cập mở cánh cửa ra bờ sông, trăng đã lên cao tít trên kia.

*

Anh đã đi mấy chục năm mà vẫn luẩn quẩn ở trong rừng cho tới một hôm, trong cuộc viễn du vô định, anh gặp một ông già râu tóc bạc phơ. Ông bảo: “Lại đây con, ta biết con lang thang đã lâu lắm rồi. Ta cho con cái lá này con hãy gài vào vành tai. Cái lá sẽ giữ cho linh hồn con không tan ra khi quay về chốn cũ. Từ giờ con sẽ bay được. Lên đường đi con. Hãy tìm về nơi con đã ra đi...”
Và suốt mấy chục ngày trời, anh trôi nhẹ nhàng qua những làng mạc, những cánh đồng khô cằn và phì nhiêu, những con sông và núi đồi. Anh trôi qua tất cả, vậy mà đến con sông này thì anh không vượt qua được nữa. Phải có một con đò đón anh qua sông. Và thế là anh gọi “Đò... ơi đò”.

*

Thùy ngồi trên bến sông khóc. Đã lâu chị mới lại được một mình ở đây. Chị mong bà cụ Lăng ngủ yên. Mọi khi, đêm nào chị khóc bà cũng ra an ủi. Thương chị bà mới ra, thế nhưng bà không biết bà đã ngăn Thùy được sống lại những ngày Lăng còn sống, những ngày chưa có tin anh mất tích. “Lăng ơi, về với em...”. Thùy đã có lúc ước mơ Lăng trở về đón chị đi. Nhưng khi nhìn mấy đứa nhỏ thì chị không cầm lòng được “mình cứ nghĩ dại, nhỡ ra... bọn trẻ con sống với ai...”. Chiều nay anh ta lại đánh Thùy, không, đúng hơn anh ta tát Thùy một cái. Đi làm về mệt nhọc thấy vợ ngồi viết lách gì đó, anh nói nặng lời. Chị cãi lại và thế là anh tát Thùy.
Thùy đứng phắt dậy, chị cần phải qua sông, chị cần phải rời bỏ cuộc sống này đi tìm Lăng của chị. Không cần suy nghĩ gì nữa, chị lao xuống bến, với lấy chèo và chèo cắm cúi. Gió thổi nhẹ vào tóc chị, vào gáy chị. Thùy như thấy đang quay về thời con gái...

*

Đúng rồi... có một con thuyền nhỏ. Như vậy là công anh gọi đò không uổng phí. Nhanh lên cô lái ơi!

Anh không nhìn xuống dòng sông nữa, anh nhìn sang bên kia sông, nơi anh sẽ trở về, u, u ơi... Mấy chục năm rồi, nhanh lên, tôi không thể đứng dậy được nữa, tôi phải về với u tôi. Tự nhiên anh liếc trộm vào gốc si. Chẳng hiểu có ma không nhưng anh vẫn thấy rờn rợn, nhanh lên, cô lái ơi...

*

Thùy thoáng giật mình. “Bây giờ có ai trông thấy mình thì mang tiếng quá”. Chị tháo cái khăn vuông trên vai che kín khuôn mặt và chèo tiếp. Bây giờ chị lại chèo rất chậm. Có lẽ đúng ra là chị không chèo mà để mặc cho con thuyền trôi từ từ. Cứ như thế, gió sẽ đưa đến chị một bến bờ, không thời gian, không còn những ràng buộc. Lăng sẽ đón chị ở đó mà cũng có thể anh không còn ở đấy nữa, nhưng chị cứ đi, con thuyền sẽ trôi theo những xoáy nước của định mệnh. Gió đêm nay thổi mạnh và con thuyền trôi từ bờ này sang bờ kia thẳng băng như theo một con đường định sẵn. Đuôi thuyền dần dần khuất hẳn trong bóng tối của cây si cổ thụ...

*

Anh lượn đi lượn lại trên bờ một cách sốt ruột “Sao cô ta lại chèo chậm như thế? Mà hình như cô ta không chèo nhưng con thuyền vẫn trôi về phía anh. Nỗi ám ảnh đè nặng lên anh. Ngày xưa cái cô chết đuối gối đầu lên cái rễ cây gần anh nhất... không phải, hình như cái rễ bên kia. Anh lại phải liếc vào gốc cây một cái. Lá si rụng nhè nhẹ và đôi lúc có một quả si rơi xuống mái cái miếu thờ phía bên kia đánh bộp.

Con thuyền cứ chầm chậm trôi!

Và cuối cùng thì nó cũng chạm vào bờ đất. Anh hấp tấp nhảy xuống đò. Trời ơi, cô lái bịt kín mặt bằng cái khăn vuông. Đôi mắt quen lắm, hay là... anh không dám nghĩ nữa. Có cái gì giống cái nhìn vô cảm của cô gái chết đuối ngày xưa. Đúng đây là con đò ma rồi. Anh ngồi rúm lại phía cuối thuyền “Cô cho tôi qua”.

Dường như không nghe thấy, cô lái đò quay mũi thuyền và lại chậm chạp chèo trở về. Anh miên man nhìn lên những rặng cây quen thuộc.

*

Thùy vừa thấy mũi thuyền chạm vào bến thì nghe tiếng gọi “Thùy ơi, về đi con”. Lại bà cụ Lăng rồi. U không cho con đi tìm anh Lăng ư, bao giờ cũng thế, khi nào con muốn về với Lăng thì u lại giữ con lại với xóm làng. “U ơi”... Thùy bật khóc, chị quay mũi thuyền và chèo về. Chị biết rằng thế này có nghĩa là lại sống những ngày như vừa rồi. Thùy quờ tay lên mũi thuyền rút mấy que hương. Chị vừa châm hương vừa lầm rầm khấn. “Lăng ơi, em không thể đi với anh được, em còn phải trông nom u nữa, với cả... còn anh ấy và các con em...”.

*

Anh vẫn ngồi núp phía cuối thuyền. Cô lái đò hình như đang lẩm bẩm gì đó. Anh chỉ nhìn thấy những chấm đỏ ẩn hiện ở phía trước. Anh muốn nhảy xuống sông để chạy trốn. Đúng cô ta là ma rồi, chỉ có ma mới khóc không ra tiếng và nói không ra tiếng. Nhưng dường như chân anh cứng lại, dính chặt vào thuyền. Mùi khói hương thơm nhè nhẹ đưa về phía anh. Bất giác anh sờ lên vành tai, chiếc lá vẫn còn. Sắp hết khoảng tối của bóng cây, anh khẽ xoay người cho đỡ mỏi nhưng không được. Chẳng biết rồi con thuyền ma này đưa anh về đâu. Anh hét lên: “Hãy buông tha tôi ra, xin đừng đưa tôi về xứ của ma, tôi còn phải về thăm u, mấy chục năm rồi...”

Nhưng không có tiếng động nào phát ra cả, ngay cả lưỡi anh cũng như hóa đá. Anh cuống cuồng nhìn sang hai bên, nhất định chỉ vì khói hương của loài ma mị này mà anh bị dính chặt ở đây...

*

Thùy cập con thuyền vào bờ. Bà cụ Lăng thì thào: “Mẹ cha mày, mày định bỏ mà đi hả con. Làm thân con gái khổ thì phải chịu, mày trốn sao nổi”.

Thùy sà vào lòng bà và khóc. Bà cụ lập cập quờ tìm tay Thùy: “Thôi con, về nhà đi. Bọn trẻ nó dậy không thấy mày thì khóc hết nước mắt. U hiểu mày, thằng Lăng nó biết thế này cũng mát lòng con ạ. Về đi...”.

Thùy neo con thuyền vào cái cây ven sông và lầm lũi biến dần vào bóng đêm.

Còn lại một mình, bà cụ Lăng thở dài chậm chạp trở về nhà vừa đi vừa đấm lưng “Rõ khổ con bé, thằng chồng phải cái nóng tính. Đẻ lắm thì nuôi nhiều, khổ sở quá rồi hay cáu, mai lại phải sang bảo nó một nhời”...

*

Con đò vừa cập bến, anh ngạc nhiên thấy cô lái nhảy lên bờ và khóc trong lòng một bà cụ rất lâu. Thế rồi cô ấy biến mất vào sau những rặng cây ven sông. Còn bà cụ thì lập cập chống gậy quay về. Cái dáng đi quen thuộc của những người quanh năm còng lưng vì hạt lúa. Bao nhiêu mùa lúa còng xuống vì thóc thì cái dáng người cũng còng xuống bấy nhiêu. Ơ, nhưng mà... đúng là u rồi. U vẫn cầm cái gậy đánh chó ngày xưa, cái gậy con chặt ở bụi trúc sau nhà. Đúng rồi, “U ơi, con bị trói ngoài này!...”. Anh không hề cảm thấy rằng mấy nén hương đầu thuyền đã lụi...
Hình như có tiếng ai gọi dưới sông, mà lại là giọng người làng này. Lạ nhỉ, đã về đến đây không lên bờ còn ngồi dưới ấy mà gọi. Bà cụ Lăng lại quay ra bến sông “Ai đó... ơ ới?”.

- Con đây mà u.

Thằng Lăng, đúng thằng Lăng ngồi ở trên thuyền.

Bà đánh rơi cái gậy ở tay và lập cập chạy xuống bến.

- Sao mày ngồi đấy hả Lăng, lên với u đi.

Lăng ngẩng đầu lên - con ngửi phải hương ma nên hóa đá ở đây rồi!

- Đâu, làm gì có ma.

- Cô lái đò lúc nãy là ma đấy, u ơi!

- Mày mơ rồi con ạ, nó là con Thùy đấy.

- Thùy hả u? - Anh cuống cuồng đứng dậy - U, bây giờ cô ấy đâu rồi, u kéo con lên với!

Bà cụ đưa tay lên. Lăng cầm vào tay mẹ. Chợt bà cụ thảng thốt kêu lên - Sao tay mày lạnh thế, Lăng?

Lăng vụt bay lên bờ, anh chơi vơi trên những đám cỏ đầm đìa ánh trăng.

- Thôi rồi, mày là ma hả Lăng, mày chết rồi có phải không?

Và Lăng chợt thấy lờ mờ trong trí nhớ rằng anh đã chết. Anh đã trúng đạn từ lâu rồi, từ mấy chục năm trước hồn anh cứ luẩn quẩn trong rừng cho đến ngày gặp ông già tóc bạc.

Anh kêu lên.

- U ơi, thế người chết là ma hả u?

- Ừ, chết rồi phải thành ma chứ còn gì nữa! Thế sao mày lại biết nẻo về đây, ai rắc vàng cho mày mà mày về được!

Và Lăng kể cho mẹ nghe những tháng ngày, những năm, mấy chục năm phiêu bạt, chuyện ông già và chiếc lá.

Bà cụ lặng người đi. Đâu đấy có tiếng chó nhà ai sủa nhau nhảu nghe là lạ...

- Người chết thì phải đi thôi con ạ, đừng luấn quấn trần gian làm gì nữa. Bây giờ mày chỉ là nỗi sợ của mọi người thôi.

- U ơi, u để cho con đến thăm Thùy đã!

Bà cụ kéo vội dải yếm lên chùi mắt.

- Không được, con mà đến thì nó cũng sợ con với cả còn chồng con nó nữa. Lăng, quay về xứ của con đi. Con không được ở lại để làm hại người sống.

Bà xua đuổi đứa con với một vẻ quyết tâm ghê gớm. “U thương con lắm Lăng ạ, nhưng mà không thể để con ở lại được, u còn mặt mũi nào nhìn xóm làng nữa...”.

Lăng dật dờ mấy vòng, chẳng rõ anh có khóc không bởi sương đêm nay rơi nhiều quá. Bãi cỏ ven sông ướt đẫm.

- U, u có nhớ con không?

Bà cụ Lăng quay mặt đi.

- Không, đi nhanh lên con, mặt trời sắp lên rồi, cái lá ấy sẽ làm con trở thành kẻ bị mọi người thù ghét. Bao giờ giỗ thì con lại về với u, thế rồi tết nhất lại về. Con xuống dưới ấy cũng có anh có em, cả thầy con nữa...

Lăng từ từ gỡ chiếc lá ra khỏi vành tai.

- U ơi, u cố ăn uống cho khỏe, u nhớ...

Cả một đoạn sông tối hẳn lại, hình như có những đám mây vừa kéo ngang bầu trời. Bà cụ Lăng sụm xuống...

*

Buổi sáng ngày mười sáu là một buổi sáng đẹp trời. Thùy chạy sang nhà bà cụ Lăng từ sớm. Lúc chị cắm mấy nén hương lên bàn thờ thì thấy trong khung ảnh Lăng có một chiếc lá màu xám, kiểu màu của lá rụng đã lâu. Thùy vội vào nhà trong tìm bà cụ.

- U ơi, u khóc hở u?

- Đâu, tao có khóc đâu. Bà cụ chối đây đẩy.

- Đúng u khóc, u lại nhớ anh Lăng hở u?

- Mẹ cha mày, - bà cụ giụi mắt, tao đang lo vợ chồng mày cãi nhau, chốc tao định sang bảo nó một nhời.

- Sáng nay anh ấy xin lỗi con rồi, u ạ.

- Rõ khéo trẻ con, có với nhau năm mặt con rồi mà cứ như là...

Thùy khẽ kêu lên “U...” rồi giấu mặt vào lòng bà “Thế mà lại sắp giỗ anh Lăng rồi u nhỉ...”.

Bà cụ Lăng không nói gì, bà mải nhìn ra vườn. Ngoài ấy cây ổi thằng Lăng trồng đang xào xạc. Chốc bà phải ra vườn hái mấy quả vào thắp hương nó. “Tội nghiệp thằng bé, u nhớ mày lắm, Lăng ơi”. Hai giọt nước mắt chậm chậm lăn trên gò má răn reo rồi rơi xuống tóc Thùy.

... Hình như ngoài sông người ta bảo đêm qua có ai lôi thuyền nhà chị Thùy ra ngoài này rồi lại thắp hương trên mũi thuyền mà chị ấy không biết... Nắng lên...