Truyện lịch sử của Nguyễn Triệu Luật có một giọng cổ kính rất dễ tin. Nói tin, là vì bây giờ làm sao biết được, chẳng hạn, hồi thế kỷ 18 lời ăn tiếng nói của người Việt nó như thế nào. Không biết chúa Trịnh và các quan trao đổi với nhau lời lẽ cụ thể ra sao, vậy mà đọc trích đoạn sau đây từ Bà chúa Chè, có phải ta thấy nó tự nhiên? Ngoại trừ, có lẽ, chỗ chúa Trịnh và Việp quận gọi chúa Nguyễn là “chúa Nguyễn”... (TT)



Nguyễn Triệu Luật, “Uống chè, nghe việc”




Sáng hôm sau.

Chúa Tĩnh đô ngự uống nước sớm ở mái tây hậu đường, có Khê trung hầu và thị nữ Ðặng Thị Huệ đứng hầu. Chúa tự pha lấy nước uống. Pha lấy nước uống, đó là một cái thú riêng của người sành uống nước chè Tàu, của người thường vẫn tự gọi mình là "trà nô". Những người ấy, dù làm to đến đâu, dù có bao nhiêu kẻ hầu người hạ cũng không khiến ai pha chè và chuyên chè cho mình uống cả. Bộ đồ chè của những người ấy cũng hơi phiền phức và lôi thôi.

Ấm để đun nước sôi, họ không dùng cái to mà chỉ dùng những cái siêu đồng nhỏ, đủ để pha bốn chén chè con con. Siêu này nước sôi đem pha thì siêu khác đã đặt sẵn ở lò. Pha siêu này vừa hết thì nước siêu khác cũng vừa sôi trên cái hỏa lò con, đun bằng than tàu. Ấm để chuyên nước làm bằng đất nung màu nâu thắm như gan, gọi là da chu. Có hạng độc ẩm để uống một mình, có hạng đối ẩm để uống hai ba người, có hạng quần ẩm để uống để uống từ bốn người đến năm người là cùng. Hạng to nữa, gọi là ngưu ẩm "trâu uống", dùng khi nào người thưởng nước có từ sáu người trở lên. Một người tự gọi mình là trà nô thì ít khi chịu uống cùng ba người trở lên. Rượu uống ba người, chè uống hai người (tửu tam trà nhị), đó mới là lúc thưởng hết hương vị, nhã vị cùng thi vị của thú thưởng trà. Ấm chuyên chè lại phải là ấm thuộc, nghĩa là ấm chuyên đã lâu mới ngon. Ấm thuộc, từng trong, cao chè bám vào một lần gồ ghề ram ráp. Chè trong ấm thoạt tiên rót ra một cái chén to, gọi là chén tống; rồi mới đem chuyên ở chén tống sang những cái chén con, gọi là chén quân. (Ðủ bộ bốn chiếc, nhưng lúc độc ẩm hoặc đối ẩm thì chỉ dùng có hai.) Bốn chén quân để trên một cái đĩa giầm, ấm chuyên và chén tống cũng để trên một cái đĩa giầm. Chén đĩa làm bằng sứ và có nhiều kiểu khác nhau, tùy theo men sứ và nét vẽ. Có bộ "đối tọa", vẽ hai người ngồi nhìn dòng nước chảy; có bộ "vị thủy", vẽ ông Tề Thái công câu ở bến Vị; có bộ "Tô Vũ mục dương", vẽ ông Tô Vũ chăn dê. Ðẹp và quí giá hơn hết là bộ "Thiên tư", men trắng toát, không vẽ gì cả; khi rót nước vào thì màu biến hồng nhạt.

Chúa Tĩnh đô dùng bộ chén "Thiên tư", nó vừa đẹp vừa quý lại vừa nịnh cái ý thích của ngài: làm đứng thiên tử thay vua Lê. Bộ ấm chén "thiên tử" ấy để trên một cái khay gỗ sưa chân quì. Chè uống thì dùng thứ chè bạch mao hầu thượng hạng, thửa từ xưởng làm chè ở núi Vũ Di bên Tàu. Mỗi buổi nước, ngài dùng chừng bốn năm ấm.

Lúc đó, chè đã chuyên đến ấm thứ tư. Ngài pha bốn chén, cầm đưa ban cho Khê trung hầu một chén. Tay giơ chén chè ra, miệng cười nói:

- Việc trong Nam, đáng để ý nhất là anh em Nhạc, Huệ ở Tây Sơn. Ta nghe nói rằng Huệ là tay kiệt hiệt nhất. Ta vừa có triệu được Huệ, nay mai tất y vào tay ta.

Khê trung hầu cúi rạp đỡ chén nước, uống xong rồi nói:

- Nhờ hồng phúc tiên vương, chúa thượng chuyến này tất được thêm người thêm đất.

Chúa Tĩnh đô lại cầm chén chè nữa ban cho Thị Huệ:

- Thưởng cho giai nhân ở phương Bắc đã mang tới cho ta cái tường triệu ở phương Nam.

Nàng rón rén đến nhận chén chè.

Giữa lúc đó, một tên thái giám vào bẩm:

- Lão tướng Việp quận công và quan Hành tham tụng Nguyễn Nghiễm vào chầu, hiện túc trực ở Tiểu bút điếm, cúi xin chúa thượng tái định.

Chúa thung dung nói bằng một giọng giõng giạc và nghiêm trang:

- Truyền hai người tới Nghị sự đường túc trực. Lấy kiệu, ta ra Nghị sự đường.

Nếu ai được nhìn nét mặt và nghe giọng nói của ngài từ lúc ban chè đến lúc ban câu dõng dạc nghiêm trang này, thì sẽ có cái cảm giác như trông một ngọn đèn đương lù mù lụt bấc, được ai khêu, ngọn sáng bật hẳn lên. Ở một chỗ, trong khoảng nửa ngày, Khê trung hầu đã được trông một vị chúa tể ngã từ cái địa vị chúa tể xuống cái địa vị anh si tình cợt nhả rồi vọt một cái rồi lại nhảy phắt lên cái địa vị một người ngồi trùm trăm họ, cầm then máy cho thiên hạ.

Kiệu đỗ ở dưới hè.

Chúa chỉnh đốn áo khăn, ung dung đường hoàng lên kiệu.



Nghị sự đường.

Trên chiếc sập thành chạm hồi văn, sơn son, thiếp vàng, chúa uy nghi ngồi giữa. Hai chiếc ghế bành kê trước sập, một chiếc Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc ngồi, một chiếc quan Hành tham tụng Nguyễn Nghiễm ngồi.

Chúa nói:

- Trong Nam, ở Phú Xuân thì loạn thần Trương Phúc Loan làm sự phế lập, lòng người chia tán; ở phía Nam thì anh em Tây Sơn quấy rối; cơ nghiệp họ Nguyễn đến hồi mạt vận. Ðó là trời cho ta lấy Phú Xuân. Mạnh Tử rằng: "Trời cho mà không lấy, phản lại, sau chịu họa." Ý ta đã quyết.

Hoàng Ngũ Phúc:

- Tuy vậy, chúa Nguyễn có sông Gianh làm hào, lũy Trường Dục làm thành, cũng khó đánh cho nhanh được. Mà thế ta là phải đánh nhanh khiến cho kẻ kia không kịp đỡ. Ngạn ngữ nói rằng: Sét đánh nhanh không kịp che tai, là nghĩa thế! Vì thế, thần hơi ngại.

Chúa cười:

- Ta mở Thượng đạo, theo lối Qui Hợp, Trầm Ma Than, cho quân đi lánh về phía Tây, theo lối Thiên Nhận sơn và dùng thượng lưu Linh giang thì sợ gì sông Gianh cùng lũy Trường Dục?

- Lão thần rõ lắm. Thượng đạo là nơi đức Lê Thái Tổ khởi nghĩa rồi được thiên hạ. Thượng đạo đã lâu không dùng đến, bây giờ nếu dùng cũng hơi phiền...

- Khanh định nói rằng Thượng đạo lấp rồi à? Lấp thì mở ra!

- Thần biết rõ lắm. Mở Thượng đạo hoặc bạt lũy Trường Dục, hai việc ấy cũng dễ. Chỉ e một điều...

Tới đó, Việp quận ngập ngừng không muốn nói nốt. Chúa Tĩnh đô hỏi tiếp:

- Chỉ e gì? Khanh e gì?

Việp quận lúc đó mới nói giằn từng tiếng, giọng nghiêm mà buồn:

- Mình mở lối vào, thì tức là mở lối cho người ta ra. Thần chỉ e một ngày, họ lại do lối ấy mà ra...

Việp quận ngập ngừng một lúc rồi vừa đứng dậy vừa nói tiếp:

- Thần thì già rồi, không chắc còn tới ngày ấy mà đền ơn chúa thượng không?

Hai người đều đứng dậy, xin cáo lui. Việp quận nói:

- Ý chúa thượng đã quyết, đạo làm tôi phải theo. Thần còn ngày nào thì giặc Nam chưa đáng lo ngày ấy.

Chúa Trịnh đứng dậy tiễn. Ðến bực hè, chúa cầm tay Việp quận:

- Khanh vào chuyến này nên thận trọng. Tới Nghệ An hãy đóng quân lại đó, ta thu xếp xong công việc rồi cũng cử đại quân vào sau. Tới Nghệ, hãy cho người đưa thư và tin vào Nam, nói rõ cái ý cất quân của mình, chờ xem Tây Sơn với chúa Nguyễn ra sao, rồi sẽ liệu sau. Ðừng vô cố gây ra biên hấn.


(Trích
Bà chúa Chè. Nhan đề phần trích tạm đặt.)