Dân tộc Xơ Đăng




Trang cpv.org.vn, 11-2004

Dân tộc Xơ-đăng có gần 127.000 người, cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam. Dân tộc Xơ-đăng có các nhóm địa phương: Xơ-đăng (Hđang), Cà-dong, Tơ-đrá, Mơ-nâm, Hà-lăng. Tiếng Xơ-đăng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Người Xơ-đăng tin ở vạn vật hữu linh, thờ nhiều thần liên quan đến sản xuất và sinh hoạt.

Người Xơ-đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-đrá vốn có nghề luyện từ quặng ra sắt và rèn rất phát triển và nổi tiếng.

Mỗi làng Xơ-đăng có máng nước chung, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông “già làng” được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.

Ở vùng Xơ-đăng có nơi còn chế độ gia đình nhiều thế hệ ở trong nhà dài. Hiện nay, từng gia đình nhỏ tách ra làm ăn riêng, ở riêng đã phát triển. Tên của người Xơ-đăng không có họ kèm đi theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A hay U, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.

Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ- đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ-đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, thổi sáo, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm đặc sắc, tiêu biểu là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.

Mỗi làng người Xơ-đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng cánh buồm lớn hoặc lưới rìu khổng lồ ngửa lên trời. Trên hai đầu nóc và dọc nóc nhà được trang trí đẹp (...)

Trang cema.gov.vn, 7-2006

Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.

Tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.

Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.

Dân số: 96.766 người.

Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau (...)

Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ. Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.

Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.
Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.

Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.

Ở: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn (?) tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.

Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi “cánh dơi”) hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.

Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông “già làng”. Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.

Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.

Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục “chia của” cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.

Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các “thần” hay “ma” được gọi là Kiak (Kia) hoặc “Ông”, “Bà”, chỉ một số nơi gọi là “Yàng”. Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con “lươn” khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.

Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.

Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...

Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.

Phạm Nhân Thành, Những tập tục kỳ lạ của một số dân tộc ít người, nxb. Phụ Nữ, 2007

Có lẽ chỉ căn cứ theo cách thức uống rượu mà người Kinh gọi tất cả loại rượu đựng trong ché sành uống bằng cây triên là rượu cần chứ đúng ra người ta gọi là cà rỏ. Cà rỏ được làm từ các nguyên liệu khác nhau nhưng hầu hết các già làng sành rượu đều thống nhất xếp hạng rượu có nồng độ từ thấp đến cao là lần lượt là cà rỏ ngô (bắp), cà rỏ gạo (có phân biệt gạo tẻ, gạo nếp và loại gieo trồng trên ruộng bậc thang hay trên rẫy) và cà rỏ khoai mì. Theo đó, cà rỏ ngô có nồng độ khá thấp và ngọt, chủ yếu dành cho phụ nữ, cà rỏ gạo là rượu dành cho bậc “trung tửu”, cà rỏ khoai mì ít ngọt và nồng độ cao (...) Uống cà rỏ là cả một nghệ thuật. Tùy theo khách quen hay lạ, lớn hay nhỏ tuổi mà các già làng chọn cách uống khác nhau. Cách thông thường nhất dành cho phụ nữ là hút cà rỏ ra chén để khách uống từ từ. Thứ hai là khách nam không thân quen lắm thì uống bằng cách ngậm ống triên để hút rượu (...) với người thân quen được xem như cư dân của gùng (xóm) thì không thể uống đơn giản như vậy (...)

Sau tiệc rượu mới tới bữa cơm. Trước khi các già làng chiêu đãi nhiều món khác nhau, khách nhất định phải qua công đoạn cơm trắng ăn với thịt gà trống trắng chấm muối hột trắng. Bữa cơm truyền thống này tất cả mọi người đều ăn bằng tay (ăn bốc). Tất nhiên mọi người cũng không ép khách ăn bốc giống như họ. Thông thường người ta dùng bàn tay thuận nhón ít cơm đựng trong rổ bỏ tém gọn ghẽ vào giữa lòng tay kia, lại bốc ít thịt gà đã được xé nhỏ bỏ lên trên và thêm mấy hạt muối trên cùng. Xong đâu đấy mới đưa bàn tay có cơm lên vừa tầm miệng rồi dùng tay kia đánh khẽ vào cổ tay của bàn tay có cơm sao cho cả miếng cơm lọt thỏm vào trong miệng mà không rơi ra chút gì và bàn tay cũng không dính lại gì. Cách ăn như vậy quả là rất khó đối với người không quen. Cứ như thế, bữa ăn diễn ra một cách từ tốn và râm ran câu chuyện đầu năm (...)

Xong bữa cơm khách được mời uống nước chè đựng trong mo cau chứ không phải trong bát sành thông thường. Nước chè ngày tết cũng được pha chế khá kỳ công. Chè tươi được ngâm rửa, vò rất kỹ trước khi cho vào nồi sắc đặc thành một chất sền sệt. Khi uống tùy vào sở thích uống đậm hay nhạt của mỗi người mà hòa chất chè sền sệt ấy với nước mưa đun sôi (...)

Rượu mừng, cơm đãi, nước mời xong mới hút thuốc. Ðúng ra phải gọi là “ăn” thuốc (...) Người ta hái lá thuốc già phơi hoặc sấy cho thật khô rồi vò kỹ, tán mịn thành bột đựng trong một ống trúc nhỏ bằng ngón tay trỏ để dùng dần. Khi “ăn” thuốc, họ vốc một ít ra đầu ngón tay đưa lên môi ngậm chặt cho đến lúc thuốc vừa tan và đủ ngấm mới phun ra phần còn thừa (...)

Tết (...) có những loại thức ăn, đồ uống đặc biệt (...) chuẩn bị công phu (...) mà không phải thứ nào người Kinh cũng nếm được. Không hiếm thức ăn mà khách chỉ có nhìn chứ không làm sao thò đũa vào được vì ngay đến cái mùi của chúng cũng đã quá “đặc trưng” (...) Tôi gần như là người bản địa nhưng mãi cho đến giờ vẫn không quen được với một số thức ăn còn ở dạng quá sơ khai, thuần nhiên (...) Ngày tết mà không ăn một vài chiếc bánh tét thì cũng khó nói được đã hưởng hương vị tết vùng cao. Bánh tét của người Ca Dong nhỏ và hơi dẹt làm từ gạo nếp rẫy, không hề có nhân thịt hay các thứ khác. Khi ăn thì chấm với một thứ mắm (...) mà người Kinh chắc chắn không xơi được.