“Quang Dũng - Một người thương nhớ...”




Quang Dũng là một trong những nhà thơ lính nổi tiếng đầu tiên. Ông là lính thực sự, một đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến (khoảng 1947-1948).

Lính đang đánh giặc chắc thơ bừng bừng tính chiến đấu? Không phải lính này đâu. Ngay bài “Tây tiến” tuy vẫn hào hùng nhưng rõ ràng không phải là một tiếng thét xung phong kiểu “Chiến sĩ Việt Nam” của Văn Cao. Quang Dũng căm thù giặc như mọi người, nhưng ông làm thơ chủ yếu để diễn những tình cảm nhớ thương trong lòng người ra trận hơn là để diễn lòng căm thù...

Quang Dũng nhớ quê và thương “em”. “Em” đây điển hình là những em gái tội nghiệp ông gặp dọc đường hành quân, chứ không phải người yêu. Hình ảnh người yêu trong thơ Quang Dũng khá mơ hồ. Cụ thể nhất có lẽ là “em mãi là hai mươi tuổi”. Nhưng em ấy khi vào đến thơ thì đã thành “dáng thời gian qua”, đã mất hết đường nét nguyên thủy trong “mùa xanh xưa” rồi...

Quả thực thơ Quang Dũng hiền quá, thiếu giá trị động viên tinh thần chiến sĩ. Nhưng lính dù đang đánh giặc cũng đâu phải chỉ bắn và bắn, nên ngay trong khói lửa cũng cần có nghệ sĩ chú ý đến tâm tình của lính. Hùng ca giúp chiến sĩ quyết chiến, còn “tình ca” giúp ta nhớ lính vẫn là người.

Sau đây chúng tôi xin đọc lại một số thi phẩm của Quang Dũng. Thương nhớ đã nên biết bao nhiêu thơ hay, nhưng thơ thương nhớ này có một giọng trầm riêng không lẫn với ai…

“Tây tiến” (1948)

Trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng (…) đối với (…) cả Đông Dương (…) Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, ta đã sớm đưa một số đơn vị lên mặt trận miền tây chiến đấu và xây dựng căn cứ địa ở vùng rừng núi giáp với Lào. Một người chiến sĩ trẻ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng, đã có những câu thơ: Tây tiến đoàn quân không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm / Mắt trừng gửi mộng qua biên giới / Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”.

Tại sao tóc…? Thì đường đi “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm / Heo hút cồn mây, súng ngửi trời / Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống...”, bộ đội liên tiếp lên xuống cứ hàng ki-lô-mét cao độ, mà ăn uống hết sức thiếu thốn, như chính Quang Dũng có lần kể, tóc làm sao mọc nổi!

“Tây tiến người đi không hẹn ước / Ðường lên thăm thẳm một chia phôi…”. “Thăm thẳm” là đường chân bước và cũng là đường đưa tới chiến thắng. Vì Tây Bắc gay go lắm. “Pháp đã tạo ra cái gọi là khu tự trị Thái, bình định ráo riết, xây dựng một hệ thống đồn bót dày đặc, và sử dụng bọn phìa, tạo, thổ ty khống chế khá chặt chẽ đồng bào dân tộc thiểu số (...) Nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ ta rất nặng”. Nặng đến nỗi “trong không khí xúc động đưa tiễn anh em lên đường (…) tôi ứng khẩu đọc tặng anh em mấy câu thơ: Sông Đà, sông Mã uốn dòng / Ghềnh rêu thác bạc ghi công anh hào / Con vàn tung cánh bay cao / Ngọn cờ chỉ hướng, ngôi sao dẫn đường”.(1) Bài thơ hình như duy nhất của Đại tướng!

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ / Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh / Áo bào thay chiếu anh về đất / Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Còn khá lâu, nhưng hồn của những “Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy” mà nằm lại rồi sẽ được nghe một loại tiếng gầm khác đưa “nhiệm vụ” rút cuộc tới hoàn thành.

“Đôi bờ” (1948)

“Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai / Sông xa từng lớp lớp mưa dài / Mắt kia em có sầu cô quạnh / Khi chớm heo về một sớm mai / Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự / Bên này em có nhớ bên kia / Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến / Quạnh vắng chiều sông lạnh bến tề / Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa / Ðêm đêm sông Ðáy lạnh đôi bờ / Thoáng hiện em về trong đáy cốc / Nói cười như chuyện một đêm mơ / Xa quá rồi em người mỗi ngả / Bên này đất nước nhớ thương nhau / Em đi áo mỏng buông hờn tủi / Dòng lệ thơ ngây có dạt dào”.

Chiều bến sông vắng, rét, “giăng giăng mưa bụi”, có là chiến sĩ Tây tiến thì cũng phải nhớ em. Nhớ là thả hồn vào dĩ vãng. Nếu trong lúc hồn bay, mà người nhớ lại sẵn thuốc lá để đều đều nhả “xanh dòng”, thì hồn dễ tìm về đúng “lối xưa” lắm. Ðã có khói làm hướng đạo, nếu lại có thêm cốc làm gương soi, thì sẽ tha hồ cùng em đối mắt “nói cười…”! Nói mắt, vì Quang Dũng nhớ em nào, hình như bao giờ cũng trước tiên là nhớ mắt...

“Mắt người Sơn Tây” (1949)

“Em ở thành Sơn chạy giặc về / Tôi từ chinh chiến cũng ra đi / Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt / Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì / (…) / Mẹ tôi, em có gặp đâu không / Bao xác già nua ngập cánh đồng / Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ / Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông / (…) / Ðôi mắt người Sơn Tây / U ẩn chiều lưu lạc / Buồn viễn xứ khôn khuây / (…) / Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn / Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng / Sông Ðáy chậm nguồn qua Phủ Quốc / Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng / (…)”.

Xác già , xác trẻ… “Văn minh” là như vậy đó. Nên “em” mới “chạy”, “tôi” mới “ra đi”.

“Viễn xứ”, “lưu lạc”... Nghe như đã xuất ngoại! Sự tình bởi quê hương có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Quê hương là nước Việt Nam, quê hương cũng là địa phương nào đó nơi mỗi người Việt Nam đã lớn lên. Quê trong “Mắt người Sơn Tây” là quê ở trong Quê... Dĩ nhiên không phải chỉ mắt người Sơn Tây mới “u ẩn”. Trong đoàn quân “Tây tiến” cứu Quê, bao nhiêu “mắt trừng” chắc chắn đều có lúc trở nên u ẩn, khi nhớ những quê Hà Nội, quê Bắc Ninh, quê Nam Ðịnh, quê Hải Dương v.v. Quang Dũng nhớ quê thành thơ, rồi bao nhiêu người khác đọc thơ Quang Dũng, chạnh nhớ quê mình...

“Trắc ẩn” (1949)

“Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau? / Ðòi phen số mệnh cũng cơ cầu / Người đi mang nửa hồn đơn lẻ / Tôi về hoài vọng một đôi câu / Khói thuốc chiều sông, hỡi dáng người! / Phương nào đôi mắt ngó xa xôi / Nào ai biết được niềm u ẩn / Từng lắng nhiều trong những mảnh đời / (…) / Chiều ấy em về thương nhớ ai? / Tôi chắc đường đi đã rất dài / Tim tím chiều hôm lên bóng núi / Dọc đường mờ những cánh hoa phai / Một chút linh hồn nhỏ / Ði về chân núi xanh / (…)”.

Ðọc “Trắc ẩn”, ngờ ngợ, đọc lại “Ðôi bờ”, thấy quả có đôi chỗ giống nhau: cũng “khói thuốc chiều sông”, cũng có em mắt “u ẩn” đang “thương nhớ ai” hay nhớ quê... Em hoặc “đi áo mỏng buông hờn tủi” hoặc thui thủi một mình “đi về chân núi xanh”... “Một chút linh hồn nhỏ” quê ở đâu, thăm ai ở chỗ thăm thẳm nào, để chiều nay “về”, cho “tôi” “chưa gặp” mà rồi “hoài vọng”?...

“Nhớ” (1949)

“Nhà tranh hốc hác / Cuối làng chơ vơ / Ðường xa công tác / Người lính ghé nhờ / Mẹ già đầu tóc bạc phơ / Dăn deo nét khó / Người vào run sốt / Giữa trưa đòi đắp chăn / Mẹ già hối đun nước / (Nhà uống nước lã quen) / Lấy thêm chiếu đắp / Kiếm thêm mền / Mền nâu rách mướp / Cháu mồ côi - cháu gái / Mắt sáng trong đang tập đánh vần / Tuổi em mười bốn chớm mùa xuân / Muối vừng hương thơm ngậy / Cua đồng canh rau đay / Mâm cơm đến bữa / (…) / Chiều rồi ba-lô lại ra đi / Bâng khuâng hồn lính vấn vương gì / Nhớ mẹ già tiền cơm chẳng lấy / Nhớ em khó nghèo giữa vườn hoang dại / Nhớ bát muối vừng, nồi cơm trộn sắn / (…)”.

Lại một em gái tội nghiệp của Quang Dũng. Có cần phải “chạy”, phải “lưu lạc”, mới đáng thương đâu. Người lính ấy ba-lô không biết còn bao nhiêu gạo nhưng lòng thì lúc nào cũng đầy ắp tình thương...

“Quán bên đường” (?)

“Tôi khách qua đường, trưa nắng gắt / Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu / (…) / Em mê sảng sốt hồng đôi má / Em có một mình nhà hoang vắng quá / Mảnh chăn đào em đắp, có hoa thêu / Hàng của em, chai lọ xác xơ nghèo / (…) / Em tản cư, tôi là lính tiền phương / Xa Hà Nội, cùng nhau, từ một thuở / Lòng rưng rưng thương nhau quá, dọc đường / (…)”.

“Em” nữa đây. Lần này người sốt là “em” chứ không phải là “tôi”. Gia cảnh thế nào mà ốm nặng nằm một mình giữa “quán lệch tường xiêu” với những chai lọ chắc đựng dầu, mắm, muối… “Tôi” chẳng giúp gì được, nghỉ rồi đi tiếp, vừa đi vừa “rưng rưng”…

“Lính râu ria” (1949)

“Khuya khoắt sông bờ vắng / Lửa hồng quán tản cư / Lính mấy chàng vất vả / Tìm sống một đêm thơ / Một người kêu cà-phê / Một anh gọi thuốc lá / Một người nhìn sau trước... / - Chị ơi! Ly rượu nhỏ! / Rượu nhỏ một ly thôi / Một ly cho đỏ mặt / Cho lên hương cuộc đời / - Chị ơi! Cháu ngủ đâu / Rồi anh bế con chị / Anh lim dim cúi đầu / Cô bé cười chúm chím / Mắt non nhìn như sao / Ðôi mắt nhìn như sao / Má hồng như trái mận / Mùa đang độ ngọt ngào! / Bàn tay như rễ cây / Bộ râu hơn bàn chải / Anh ôm con người ta / Anh ôm ghì nó mãi / Cô bé năm tháng trời / Tuổi anh vừa ba mươi / Vợ anh giờ này đâu? / Anh mỉm cười rười rượi / Khi anh về đã xa / Chị dọn hàng đi ngủ / Chép miệng trong hơi chăn / Chị buồn chi không rõ / Khuya khoắt sông bờ vắng / Tiếng súng rền xa xa / Lính mấy chàng phanh ngực / Hát nhẹ lên bài ca...”.

Lính vào quán, có lính kêu cà-phê, lính gọi thuốc lá, lính đòi rượu, lại có lính hỏi thêm bà chủ quán (hẳn quen) một món rất lạ: “Chị ơi! Cháu...”! “Rượu nhỏ một ly thôi” đủ “lên hương cuộc đời”. Cháu nhỏ một ôm thôi, đủ lên tinh thần chưa hỡi “lính râu ria”? Giờ ôm tạm “con người ta”, muốn có ngày ôm con mình, lính phải bước qua xác giặc.

“Thu” (1950)

“Gió heo nổi sớm nắng thu về / Chuồn chuồn cánh mỏng lại bay đi / (…)”. Nơi sông núi xa xôi nào đó, trên bãi vắng có một người ngồi trong “nắng thu”, trong “gió heo”, trong tiếng lá rì rào, ngồi trông chuồn chuồn bay “rỡn từng ngọn cỏ”, trông “cánh nhạn tung trời”, trông mây “hồng nhạt nhạt”, trông “mái (...) nắng xiêu xiêu”, mà “vời tưởng (...) quê hương”...

“Bướm nhẹ cánh vàng mơ lá cải / Trời thu không rượu cúc mà say”... Trời thu dễ say, nhưng người quê được ở quê say khác, còn ở xa quê say khác. “Quạnh quẽ sắn nương rờn nắng ấm / Ngõ trúc người ơi! Tịch mịch chiều!”. Chiều tịch mịch có “tiếng sung rơi đo lặng lẽ”, chao ơi thu!

“Những cô hàng xén” (1951)

“Rặng vải ven sông Đáy / Um tùm bóng cuối xuân / (…) / Má hồng thôn nữ / Thoảng mùi thơm quê mùa (...)”.

“Mùi thơm quê mùa” là những mùi gì? Đây: “Mái tóc em vừa vương hương bưởi / Chân nhẹ nhàng còn dính phấn hoa”. Kia: “Thoảng mùi hoa lan hoa nhài nhè nhẹ”

“Kĩu kịt đôi bồ”, “đi từ tối đất”... “Những cô hàng xén” thơm hương hoa bưởi hương hoa nhài hương hoa lan, nhưng thơm nhất thứ hương “cần cù nuôi mẹ nuôi em”.

“Đường trăng” (1957)

“(…) Ðường ấy sao khuya đằm nước mắt / Trong vời như ngọc lá tre xanh / Giếng làng còn ướt trăng trên đá / Chim ngủ xôn xao động lá cành (…) / Là những người quân qua bến làng / Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang / Lớp này lớp khác người sang hết / Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng”.

“Những người quân” đang “lớp này lớp khác” theo nhau xuống thuyền sang sông có lạ gì con “đường trăng”. Họ đã bao lần bước trên nó trước khi thành quân. Họ chính là những đứa con hiếu thảo của làng quê muôn thuở, ra đi vì nước vì làng... Sang sông đêm nay, có người rồi sẽ không thấy lại những đá bờ giếng “ướt trăng”, lá tre xanh trong như ngọc, thuyền nằm phơi “dưới nguyệt vàng” bao giờ nữa. Họ thôi thấy, để người khác được tiếp tục thấy.

“Pha Đin” (?)

“Như từng đợt sóng bủa lên trời / Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được (…)”. Tây tiến đã tới đích. Một người Tây Tiến đi lại con đường, lần này thong thả ngắm phong cảnh.

Khen ai khéo vẽ cảnh to lại thêm vật bé cho cảnh càng thêm to: “Ngựa thồ đỉnh dốc nhỏ như kiến / Đi trong đường mây rắc bụi vàng”.

Hay nhất cảnh không câm, mà vừa vang vọng tiếng xưa: “Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn / Liệt sĩ tên còn xanh núi non / Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt / Mà như lau sậy có linh hồn”, lại vừa rộn ràng tiếng nay: “Ầm tiếng xe lu vách đá vọng / Mờ ảo công trường hiện dưới lau / Đôi hạt cầu đường lán lưu động / Còn bay than bếp dưới hoa đào”.

Vừa cảm khái vừa phấn khích, người ấy tiếp tục ngắm “gấm vóc một miền Tây”: “Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây”.

Đọc bài thơ này của Quang Dũng, xong nên đọc lại luôn đôi bài “thơ” khác về cùng đề tài của Nguyễn Tuân.(2)

“Trưa hè” (1960)

“Trưa hè bỗng nhớ sông quê / Nước xa không bóng thuyền đi đôi dòng / Thóc nhà ai có phơi không? / Chói chang lửa thóc sân trông bóng người / Vại mưa in dáng mây trời / Em soi bóng có nhớ người xa em? / Bờ tre gió đánh lả mềm / Thoảng say mùi nái bên thềm ai giăng / Xa quê dầu chẳng võ vàng / Trông mây núi nhớ mây làng về trưa”.

Soi cái gương ấy, dễ sinh lôi thôi lắm. Đã bóng lẻ, lại có “dáng mây trời”, buồn ơi là buồn. Trông “trưa hè” nhớ “sông quê”, rồi “trông mây núi nhớ mây làng”, làm sao cho khỏi “võ vàng”, ai ơi!

“Đêm Bạch Hạc” (1967)

“Có những chiếc giường lạ / Nhìn ra mảnh sân nào / Nửa đêm chợt thức giấc / Thấy ta nằm ở đâu / Như cánh chim mỏi cánh / Tạt vào rừng không quen / Không chọn cành ngủ đỗ / Nào mong gì ấm êm / Ðêm nay đêm Bạch Hạc / Ta tạt vào nhà ai / Nghe sông Lô cuộn nước / Dềnh lên suốt đêm dài / Sáng mai rồi tiễn biệt / Tóc đẹp nhường bâng khuâng / Một đêm dài để nhớ / Những người xa vô cùng / Mái nhà đêm Bạch Hạc / Có nhớ người đi không?”.

Nằm trong nhà lạ, khó ngủ yên, thức thì nghe sóng ngoài sông nước dưới sông như vỗ như cuộn như dềnh lên ngay trong lòng mình! Nghe đi nghe lại, rồi nhớ mỗi lúc mỗi xa, tới những người có lẽ đã lâu lắm không còn… “Nhà ai” có ai “tóc đẹp”. Có lẽ, một phần, nhờ đó, không biết bao nhiêu năm sau, người trong “đêm Bạch Hạc” nằm nhớ miên man, bây giờ lại nhớ chính cái “mái nhà”...

“Em mãi là hai mươi tuổi” (1970)

“Em mãi là hai mươi tuổi / Ta mãi là mùa xanh xưa / Những cây ổi thơm ngày ấy / Và vầng hoa ngâu mưa thu / Tóc anh đã thành mây trắng / Mắt em dáng thời gian qua (…)”.

Khi làm bài này Quang Dũng mới 49 tuổi, “tóc anh (...) thành mây trắng” sớm vậy sao? Ờ nhưng dù tóc chưa hóa mây, thì lòng con người ta vẫn có thể cảm thấy... xưa chứ. “Em mãi là…”, em xưa nhưng em mãi xanh, trong anh!

“Chiều núi mưa rào” (1972)

“Kỳ Sơn mây kéo nặng / Hoa trẩu rụng đầy đường / Sấm đầu mùa đã động / Sao động lòng tha hương / Đồi sắn ướt sũng lá / Gà ướt cánh nép hiên / Chim xào xạc trốn biệt / Mưa giăng màn triền miên / Nằm đợi ven sông Đà / Thuyền mờ trong sóng vỗ / Mưa bao giờ cho yên / Một chặng đường mưa gió”.

Gặp mưa gió, hay nhỡ độ đường, phải “nằm đợi” bên một con sông lớn dễ cảm xúc miên man lắm nhỉ. Cảnh sinh tình, sinh thơ. Đọc thơ, rồi cũng sinh: Mây vần sấm động đầu non / Trời chiều bóng lẻ quê còn mãi đâu / Gà hiên trốn trận mưa rào / Người nương đâu nhỉ khỏi dào dạt tim?... Rồi lại sinh nữa: Núi mây vần sấm động / Sông sóng vỗ lay thuyền / Nằm nghe mưa rào đợi / Đời bao giờ cho yên?...



Thu Tứ
Viết năm 2011
Sửa tháng 9-2023














__________
(1) Vàn là tên loài chim như con vạc.
(2) Tức hai bài ký “Một bài thơ đường” và “Lên Tây Bắc 1958”.