Mắt “anh Chín” thấy ngộ ghê, mà lòng anh “nghe” cũng ngộ không kém. Đâu phải ai cũng cảm được cảnh vật “từ ngoài vào đến bên trong” như “anh”. (TT)



Bình Nguyên Lộc, “Lập đông ở miền đông”




Mặt trời mãi không thấy đâu hết từ sớm đến giờ. Mây trắng đục phủ cả vòm trời và hối hả từ phía rừng sâu bay về đâu không biết. Những hột mưa nhỏ xíu khi nhặt khi thưa cứ rơi mãi xuống mặt đất lầy nhầy. Thỉnh thoảng những sợi nước nhuyễn ấy bị gió từng cơn thổi tạt, khi thì xiên qua, khi thì xiên lại giống như những sợi chỉ treo vật gì, đánh đòng đưa trước gió. Có khi gặp phải hai luồng gió ngược nhau, những sợi mưa ấy tréo lộn với nhau như tre đan. Có khi hột nước mịn quá và rơi nhặt quá, bị gió cuốn, bay như khói.

Gió nhẹ, mưa sương, nhưng anh Chín nghe cái lạnh thấm tới đáy lòng anh. Nhưng anh không ngạc nhiên vì thời tiết. Ðã ba ngày rồi trời vẫn thế. Năm nào, vào độ này trời cũng âm u, vần vũ ba bốn ngày, rồi mưa dứt hẳn, cùng với gió bấc trên rừng về, và mùa nắng bắt đầu thiêu đốt vạn vật cho đến mùa mưa tới. Anh Chín nhớ rằng hồi ở dưới làng người ta gọi cảnh thê lương này là “trời lập đông”.

Vậy hôm nay là ngày thứ ba trong những ngày lập đông ủ dột.

Những đám mây thừa trong lục địa bị đuổi xua ra biển cả, như còn tiếc sứ mạng chưa tròn, đánh rơi mãi những giọt lệ giã từ buồn như mưa Ngâu.

Anh Chín cất cái chòi này giống như khoét một lỗ trong rừng. Chung quanh nhà anh, thảo mộc xanh mịt đứng sững lên như thành giếng đóng rêu. Nhà anh Chín giống như nằm dưới đáy giếng, chỉ thấy một mảnh trời tròn, nhỏ. Gió bấc lướt trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh.

Cái buồn chiều hôm, cái buồn một ngày mưa, cái buồn đêm vắng cũng nghe không khó chịu bằng nỗi buồn nhìn cây lá xơ rơ trong gió. Nghe như là một cuộc tang thương đã qua đó, và cái gì cũng đã hết, đã chết, hoàn toàn trống rỗng từ ngoài vào đến bên trong (...)

Hai cặp trâu cổ, nhốt chung trong chòi, phía sau, bỗng rống lên, những tiếng dài chết lần theo với tiếng gió hú trong cây. Ðàng xa thác nước Hàn Dài và Hàn Ông Sâm giận dữ đổ ào ào nghe như mưa nguồn gầm trong cây lá. Tùy theo chiều gió, tiếng thác khi thì xáp lại gần như muôn binh tiến đến, khi thì dịu lại như mưa sắp tàn (...)

Lập đông đã dứt trong đêm rồi. Mưa bụi không rơi nữa. Mặt trời ban mai đã trở lại sau những ngày núp ẩn, để nghe chim muông tung hô, chào đón. Qua các lỗ trống trên tàng cây, ánh nắng lò vào bóng râm, thành những tia ngay bót như cây cột đình. Anh Chín thỉnh thoảng ôm lấy những cây cột nắng đó để mà sưởi. Những lúc ấy anh sè tay hứng lá trắc tròn xoe, vừa rơi vừa quay như chong chóng, hoặc những lá sao dài rơi xụi lơ xuống đất.

Cùng với tiếng ve rân trong nắng sớm, những tiếng tố hộ, tố hộ của loài công vang dội từ gốc rừng này đến gốc rừng khác. Những man khê, suối dại rù rì đâu đó, dưới cỏ, trong rêu (...)

Rốt cuộc anh cũng tới nơi. Bờ sông Bé cao nghều nghệu như muốn ép con sông nhỏ chảy dưới kia, sâu thăm thẳm. Vách lá xanh đứng sững lên làm cho sâu thêm vực thẳm ấy. Bờ sông man rợ khiến dòng nước hiền lành kia cũng mang một vẻ hiểm ác như chứa trong lòng nó không biết bao nhiêu là thủy quái (...)


(Trích từ truyện ngắn Thèm Người)