Nguyễn Văn Đắc, “Dầu khí Việt Nam”




Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí có khả năng thu hồi của các bể trầm tích Đệ Tam của Việt Nam khoảng 4.300 triệu tấn dầu quy đổi, đã phát hiện là 1.208,89 triệu tấn, chiếm khoảng 28% tổng tài nguyên dầu khí Việt Nam, trong đó trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn dầu quy đổi, xấp xỉ 67% tài nguyên dầu khí đã phát hiện (...)

Sau khi phát hiện và khai thác dầu từ móng nứt nẻ trước Đệ Tam của mỏ Bạch Hổ ở bể Cửu Long, trữ lượng dầu của Việt Nam mới được vào thống kê đầu tiên vào năm 1990, và sau khi phát hiện mỏ khí Lan Tây – Lan Đỏ ở bể Nam Côn Sơn trữ lượng khí của Việt Nam mới được đưa vào bảng thống kê của thế giới từ năm 1992 (...)

Nghiên cứu sự biến động trữ lượng dầu khí khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cho thấy trong khi các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia có trữ lượng dầu giảm đi so với năm 1992 thì Việt Nam lại có sự tăng trữ lượng nhanh cả dầu và khí.

Thành công trong thăm dò gia tăng trữ lượng dầu khí của Việt Nam là do hàng loạt các hợp đồng dầu khí được ký ở các vùng mới và hoạt động thăm dò sôi động mở rộng ra toàn thềm lục địa đến vùng nước sâu 200 m.

Mặt khác, khoan thăm dò và phát triển mỏ Bạch Hổ lần đầu tiên đã phát hiện dầu trong móng nước Đệ Tam bổ sung nguồn trữ lượng rất lớn để duy trì và tăng sản lượng khai thác.

Như vậy, ngay cả những phát hiện mới bị giảm đi, số lượng và quy mô, trữ lượng có khả năng tăng mạnh đáng kể ở các vùng xung quanh mỏ sẵn sàng khai thác. Điều đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các hoạt động phát triển ở các mỏ đã phát hiện trong việc thăm dò hợp lý các tiềm năng dầu khí có thể.


("Tài nguyên dầu khí và vị thế Việt Nam trong khung cảnh toàn cầu", trang
congnghedaukhi.com, 5-2011)