Khuyết danh, “Tục táng treo”



Cộng đồng Bách Việt (...) thổ táng (chôn dưới đất) là hình thức mai táng phổ biến nhất. Song, rải rác khắp vùng văn hóa Bách Việt cổ vẫn có một hình thức mai táng độc đáo khác: tục táng treo (còn gọi là huyền táng, nhai táng, thuyền quan táng, v.v.).

Tục táng treo có mặt ở hầu hết các tiểu vùng Bách Việt cổ, từ nam Động Đình, hạ lưu sông Dương Tử, vịnh Hàng Châu, Phúc Kiến, Lưỡng Quảng, cao nguyên Vân Nam – Quý Châu (Trung Quốc) đến Tây Bắc, Bắc Trung bộ (Việt Nam).

Táng treo thông thường (...) quan tài được đặt bên trong các thạch động có cổng chắn hoặc được cắm một đầu vào hốc đá (...) Mộ thất có thể là thạch động tự nhiên, cũng có thể do con người đục rỗng vách đá tạo thành. Một số thạch động rộng được chia thành nhiều gian (...) để đặt (...) nhiều quan tài (...) Ngoài ra còn có kiểu đặt quan tài lên hai thanh gỗ chắc cắm vào sườn núi. Vị trí “treo” quan tài thường cách mặt nước suối, hồ khoảng 40-50 mét.

Tang cụ thường làm bằng gỗ với nhiều hình dáng khác nhau, phổ biến nhất là kiểu hình chữ nhật có nắp hình mái vòm và quan tài hình thuyền (...)

Về ý nghĩa (...) có thuyết cho rằng tục táng treo xuất phát từ mối quan hệ với môi trường sống kiểu “tọa sơn hành thủy” (ở lưng đồi núi, di chuyển bằng thuyền) – một trong các đặc trưng văn hóa Bách Việt cổ vùng đồi núi. Có thể người xưa (...) quan niệm (...) thuyền (quan tài) (...) sẽ “chở” linh hồn người chết về tới vùng đất tổ tiên, nơi mọi di chuyển đều là đường thủy. Quan niệm ấy còn lại nhiều dấu vết trong đời sống tâm linh nhiều dân tộc hậu duệ Bách Việt, như kiểu “về nơi chín suối” của người Việt Nam hôm nay.

(...)

Trong số các di chỉ táng treo Bách Việt, nổi tiếng và tiêu biểu nhất là di chỉ Vũ Di Sơn ở phía bắc Phúc Kiến. Cả một khu vực rộng lớn ở mạn nam và bắc núi Vũ Di đều rải rác có quan tài treo.

Thời xưa, vùng núi Vũ Di sớm đã có người Mân Việt cổ cư trú. Nhiều sử sách Trung Hoa cổ có ghi chép về di tích này. Quyển 110 của bộ Thái bình hoàn vũ ký dẫn cuốn Kiến An ký có ghi núi Vũ Di “có hơn nghìn quan tài treo” (...)

Niên đại của khu táng treo Vũ Di Sơn vào khoảng 3445+/-150 năm, tức vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ II trCN. Tuy nhiên, các loại hoa văn trên các đồ gốm tùy táng tìm thấy trong các động mộ lại có niên đại muộn hơn, khoảng từ nửa đầu thiên niên kỷ I trCN trở lại. Mốc thời gian muộn nhất là thế kỷ II trCN, trước khi các triều đại Tần, Hán phương Bắc chinh phục vùng này.

Cùng với khu táng treo Vũ Di Sơn ở Phúc Kiến, nhiều quần thể táng treo Bách Việt khác còn được tìm thấy rải rác các nơi khác như khu Quý Khê, Long Hổ Sơn ở Giang Tây, khu La Giang ở nam Chiết Giang, một số nơi ở bắc Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc), Quan Hóa (Thanh Hóa, Việt Nam).

(...) tục táng treo còn (...) thấy ở Tứ Xuyên (Trung Quốc), Thái-lan, đảo Bornéo, Philippines (...) Okinawa (Nhật Bản) và một số (...) đảo khác ở tây nam Thái Bình Dương.


(Trang
vanhoahoc.edu.vn)