“Cao Bá Quát theo Phạm Thế Ngũ”




Sinh năm 1800(?), mất năm 1854. Tự Mẫn Hiên, hiệu Chu Thần. Quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Ông tổ là Cao Bá Hiên làm đến Binh bộ Thượng thư kiêm chức Tham tụng trong phủ chúa. Năm 1831 đậu á nguyên kỳ thi hương ở Hà Nội, nhưng quyển đưa về bộ duyệt lại bị đánh xuống cuối bảng. Thi Hội mãi không đậu.

Năm 1841 nhờ quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, được bổ chức Hành tẩu ở bộ Lễ. Làm sơ khảo ở trường thi Thừa Thiên, sửa giúp 24 quyển thi phạm húy, việc bại lộ, bị cách chức và phát phối vào Ðà Nẵng. Hai năm sau được cho đi theo phái bộ Ðào Trí Phú đi công cán xứ Tân Gia Ba. Về được làm chức quan nhỏ ở Huế đến năm 1854. Ðược nể vì hay chữ, bị ghét vì cao kỳ, ngạo mạn.

Năm 1854 ra làm Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Mưu phản, cùng Nguyễn Kim Thanh phù Lê Duy Cự, tháng 10 năm ấy khởi nghĩa ở Mỹ Lương (tục gọi giặc Châu chấu, vì năm ấy ở vùng Sơn Tây có nạn châu chấu phá hoại mùa màng rất dữ). Thất bại, bị bắt đưa về nguyên quán xử chém.

Tác phẩm chữ nôm để lại rất ít: một bài phú, chín bài hát nói, vài vần thơ luật, mấy đôi câu đối. Tác phẩm chữ Hán còn lại cũng rất ít.


(Theo
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ)