“Trời sinh” chi cái đồng hồ. Ðể cho một ông tiên giáng thế phải đêm trường ngồi nghe “ký cách” mà:

“Lụy trần ngày tháng lan man,
Nỗi riêng riêng nghĩ muôn vàn càng thêm.”

(Thu Tứ)



Tản Đà, “Ðêm đông hoài cảm”




Trăm năm nghĩ người đời có mấy,
Một đêm đông sao thấy dài thay!
Lạnh lùng gió thổi sương bay,
Chập chờn giấc bướm canh chày lại canh.

Ngó trên án đèn xanh hiu hắt,
Nghe tiếng kim ký cách giục giờ.
Ðêm trường nghĩ vẩn lo vơ,
Cái lo vô tận, bao giờ là xong.

Thân nam tử đứng trong trần thế,
Cuộc trăm năm có dễ ru mà?
Có đời mà đã có ta,
Sao cho thân thế không là cỏ cây.

Ðời có kẻ đường mây gặp nước,
Bước công danh sấn trước trèo cao.
Thế gian tỏ mặt anh hào,
Muôn nghìn mắt, miệng trông vào ngợi khen.

Cũng có kẻ tài hơn chữ lợi,
Trắng hai tay làm nổi lên giàu.
Chẳng khanh tướng, chẳng công hầu,
Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra.

Ấy những hạng vinh hoa phú quý,
Làm tài trai đắc chí hơn người.
Trăm năm nghĩ cũng nên đời,
Trăm năm rồi nữa... biết thời ra sao?

Lại những kẻ chí cao tài thấp,
Bước đường đời lấp vấp quanh co;
Phong lưu rồi đủ ấm no,
Kém ra, lưu lạc giang hồ cũng thân!

Nghĩ qua thử, khách trần bao kẻ,
Giật mình cho thân thế trăm năm.
Mối đâu bối rối tơ tằm,
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng.

Bước lận đận thẹn thùng sông núi,
Mớ văn chương tháng lụn năm tàn,
Lụy trần ngày tháng lan man,
Nỗi riêng riêng nghĩ muôn vàn càng thêm.

Ðèn hiu hắt, tiếng kim ký cách,
Mõ sang canh giục khách đòi cơn,
Mạch sầu canh vắng như tuôn,
Nhớ ai nước nước, non non bạn tình!